BA
MƯƠI BA NĂM TRƯỚC, NGÀY 30-4-1975 ,
TỔNG
THỐNG DƯƠNG VĂN MINH ÐẦU HÀNG
HAY
BỊ CỌNG SẢN BẮC VIỆT BẮT TẠI DINH
ÐỘC LẬP ?
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––
MƯỜNG
GIANG
Ðiện Kinh Thiên ở Hà Nội,
được xây dựng từ đời Nhà Hậu Lê (1428), trên
nền cũ của các cung điện thời
Lý,Trần.. và trở thành Hành Cung của Nhà Nguyễn
từ năm 1802, vì kinh đô của nước ta, được
dời vào Huế. Năm 1873, thực dân Pháp chiếm Hà
Nội, chúng đã biến hoàng cung thành một pháo đài
rất kiên cố.
Năm 1954 tới cuối tháng 4-1975, Cộng
Sản làm chủ nửa nước Từ đó Ðiện Kinh
Thiên, trở thành Tổng hành dinh của Bộ Tổng Tham
Mưu/Bộ đội Bắc Việt. Ðây là chỗ của các
đầu sỏ Bắc Bộ Phủ, từ Hồ Chí Minh
tới Lê Duẩn,Phạm Văn Ðồng.. trực tiếp
lãnh đạo 8 đời Thứ trưởng Bộ Quốc
Phòng và Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Phùng Quang
Thanh.. Tổng Tham Mưu Trưởng, bày binh bố trận
mọi kế hoạch, chiến lược xâm lăng Miền Nam
VN,qua cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền
Từ năm 1967 về sau, chiến tranh càng
lúc thêm ác liệt, lan rộng tới tận miền
Bắc, khiến Hà Nội phải xây thêm căn cứ D-67,
vừa làm nơi trốn bom đạn oanh tạc của các chóp
bu, thật vô cùng khủng khiếp do Mỹ thả. Ðây
cũng là nơi họp tuyệt mật, của Bộ Chính
Trị và Quân Ủy Trung Ương Ðảng. Theo Võ Nguyên
Giáp viết trong ‘ Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng ‘,
thì từ tháng 4-1973 Bộ Thống soái tối cao,
đã giao cho Bộ Tổng tham mưu, lập một tổ
đặc biệt gồm Lê Trọng Tấn, Vũ Lăng,
Võ Quang Hồ và Lê Hữu Ðức, nghiên cứu
kế hoạch tổng tấn công cưởng chiềm VNCH.
Bản dự thảo đầu tiên ra đời ngày 5-6-1973 và sau
đó qua bảy lần xét duyệt, cuối cùng vào ngày 30-9-1974,
mới được Bộ Chính trị nghị quyết ‘
Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975,
thì lập tức tổng tấn công Miền Nam ‘.
Ngày 18-12-1974 tới 8-1-1975, Hội nghị
Bộ Chính trị mở rộng, để quyết định
lần cuối cùng kế hoạch trên. Sau khi chiếm
được Thường Ðức (Quảng Nam) và Phước Long, mà
không thấy phản ứng nào từ Mỹ, nên ngày 9-1-1975,
Quân ủy trung ương họp với quyết định mở
chiến dịch 275, tấn chiếm Ban Mê Thuột, do Văn
Tiến Dũng , từ Bắc vào Nam chỉ huy trực
tiếp trận địa.
Sau khi Cao nguyên và Quân đoàn 1 của VNCH
thất thủ, tại Hà Nội vào ngày 31-3-1975, Cọng
Sản Bắc Việt quyết định lập Bộ
Chỉ huy và Ðảng Ủy Sài Gòn, do Lê Ðức
Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng chỉ huy. Ngày
7-4-1975, Võ Nguyên Giáp ban lệnh bằng mọi cách
phải đánh chiếm cho được Miền
Trong lúc đó Miền Nam VN đã bị Hoa
Kỳ và Thế giới tự do bỏ rơi tức tưởi,
phải một mình đơn độc tiếp tục cuộc
chiến chống xâm lăng trước mặt. Ðồng lúc
lại phải hứng chịu những đòn thù thê
thảm, của bọn con buôn chính khứa, cứ tàn nhẩn
đạp bừa trên xác lính, để múa rối bỉ ổi
trên sân khấu chính trị. Dữ dằn nhất vẫn là
bọn trí thức khoa bảng,tư xưng là thành phần thứ
ba, đã đi đêm với Bắc Việt từ lâu, gồm có
Hồ Ngọc Nhuận, Vũ Văn Mẫu, Lý Quý
Chung, , Hồ Văn Minh, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Xuân
Oánh.. Tháng 3-1975, tình hình VNCH trở nên nguy ngập
sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, Ngô Công Ðức, nguyên
Dân biểu Quốc hội VNCH phản bội đất
nước , sống lưu vong tại Pháp, đã vội vã
sang Mỹ đòi chấm dứt viện trợ, thay
ngựa bằng lá bài Dương Văn Minh, để chuẩn bị
đầu hàng. Ðó là lý do truất phế Trần Văn
Hương sau 5 ngày làm Tổng thống, kế vị TT.Nguyễn
Văn Thiệu từ chức ngày 21-4-1975.
Ngày 27-4-1975, đúng 17 giờ 5 phút, trong
phòng khánh tiết của Dinh Ðộc Lập, đang
diễn ra buổi lễ bàn giao chức vụ tổng
thống VNCH, giữa Trần Văn Hương và Dương Văn Minh. Ðây là
lần bàn giao tổng thống lần thứ hai xảy ra
chưa đầy 10 ngày, trong chính quyền Nam VN, giữa lúc
đất nước đã mất hơn hai phần ba lãnh
thổ và nguy ngập nhất là nửa triệu quân Bắc
Việt đã ập sát Sài Gòn.. Theo phóng viên Ðài Phát
Thanh Sài Gòn, mô tả hôm đó, thấy có sự hiện
diện của ba Phó Thủ Tướng Trần Văn Ðôn,
Nguyễn Văn Hảo, Dương Kích Ngưỡng, Quốc Vụ Khanh
Nguyễn Xuân Phong, thêm Chủ Tich Thượng Viện Trần
Văn Lắm và nhiều Nghị Sĩ, Dân Biểu như Tôn
Thất Ðính, Nguyễn Văn Ân, Trần Cao Ðể,
Mã Sái, Hồ Ngọc Cứ, Ðinh Văn Ðệ,
Huỳnh văn Cao, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu.. và
cả Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện là Trần Văn
Tiết. Ngoài ra còn có hơn 100 phóng viên và nhiếp ảnh
tham dự, làm cho quang cảnh buổi lễ bàn giao thật
sôi nổi. Vậy mà Tân Tổng Thống chỉ mới
giữ chức chưa đủ hai ngày, thì đã vội
vã đầu hàng giặc, khiến cho đất nước và
đồng bào, suốt ba mươi ba năm qua, sống kiếp nô
lệ mới cay đắng ngậm ngùi, dưới ách thống
trị siêu phong kiến của bọn đầu sỏ
Cộng Sản Bắc Việt, gìa nua độc ác.
Vì thế có thể nói rằng , chưa có đời nào trong
giòng sử Việt, cả nước phải chịu
nhiều đau khổ như hiện tại.
Là người của một giai đoạn
lịch sử cận đại, Tướng Dương Văn Minh, chỉ
trong vòng 12 năm ngắn ngũi, đã là nhân vật
chủ chốt, hai biến cố trọng đại của
cận sử VN. Ngày 1-11-1963 làm sụp đổ nền
Ðệ Nhất Cộng Hòa Miền
‘ Một trang
sử mới được mở ra, do Ðại Tướng Dương
Văn Minh viết. Ông Minh nhậm chức lúc này, không những
chỉ vì thiện chí, mà còn là CAN ÐẢM TỪ
BỎ GIẢI PHÁP QUÂN SỰ, vì đã chọn con
đường Hòa Giải, Hòa Hợp để có Hòa
Bình.. ’ ’
Ðúng lúc lễ bàn giao bắt đầu,
thì trên bầu trời, tên phản tặc Nguyễn
Thành Trung, đứa con rơi của VC bỏ lại tại
Bến Tre, sống nhờ sự dưỡng dục của
người miền Nam VN nhưng vô ơn bạc nghĩa, đã lái
và hướng dẫn 5 phản lực A37 của VNCH bỏ
lại, oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất, đồng
thời đặc công Bắc Việt cũng lội vào
bờ, chiếm kho tiếp liệu của Usaid bỏ
lại, sát chân cầu Sài Gòn. Nhiều người lúc đó,
cho là Ðại Tướng Văn Minh bị bệnh tâm thần,
nên mới tin tưởng là cọng sản Hà Nội sẽ
ngưng bắn, trong khi chúng sắp chiếm được miền
Nam. Ngây thơ hơn hết, là việc Dương Văn Minh, đêm 27-1-1975,
đã mời Ngô Công Ðức lúc đó đang lưu vong bên Pháp,
về làm Bộ trưởng thi hành Hiệp định Ba Lê 1973,
thực chất chỉ là một tờ giấy lộn
không hơn không kém. Ðại bàng tối cáo mà như vậy,
thì trách làm sao được những trận đánh không tên trong
quẩn sử đã không có đại bàng ?
Hởi ôi, khi người Mỹ còn
chiến đấu ở VN, với tiềm năng quân sự to
lớn, nên lúc nào nếu muốn, cũng có thể tiêu
diệt Bắc Việt dễ dàng. Thế nhưng trong các
lần hội nghị, để tìm giải pháp chấm
dứt chiến tranh bằng con đường hòa bình.
Trăm lần như một, người Mỹ đều bị Bắc
Việt lừa bịp, tới lần cuối cùng bị TT
Nixon ra lệnh oanh tac và phong tỏa Miền Bắc kinh
khiếp chưa từng có. Vậy mà sau khi hết bom rơi, Hà
Nội vẫn xạo dù chịu ký vào bản hiệp
ước ngưng bắn tại Paris tháng 2-1973, khi mấy trăm ngàn
bộ đội Bắc Việt, được Mỹ cho phép ở
lại tại chỗ, để tiếp tục xâm lăng
Miền Nam.
Trong lúc đó, khi Ðại Tướng Dương Văn
Minh lên nắm quyền Tổng Thống VNCH vào chiều ngày
28-4-1975, thì đất nước đang ở vào giờ thứ
25 hấp hối. Vậy chúng ta có điều kiện gì
để mà bắt cọng sản chịu ngưng bắn, để
hòa hợp có hòa bình ?. Nham nhở nhất, là
từ sáng ngày 29-4-1975, đài VC lên tiếng phủ nhận luôn
chính phủ Dương Văn Minh mới lên tối hôm qua, đồng thời
ra lệnh đánh chiếm Gia Ðịnh-Sài Gòn.
Sau này Trần Văn Hương có tiết lộ
với tác giả ‘ L’Adieu à Sài Gòn ‘ cũng là sử gia
người Pháp Jean Larteguy, rằng sự thật Dương Văn Minh
cũng giống như ông, chẳng có liên lạc được ai bên
phía Bắc Việt, để mà hòa hợp hòa
giải. Còn Ðại Tướng Minh cho biết là
mình đã tin vào lời của Vũ Văn Mẫu.
Rốt cục tất cả đều là những người mù
rờ voi, sau đó ảo tưởng đẻ ra kế hoạch
vĩ đại đề cứu nước cứu dân, trong khi
mặt thật là chẳng nắm được gì hết,
ngoài bên cạnh có một đám quân sư xôi thịt xúi bậy làm
càn.
Trong lần kỷ niệm 17 năm quốc
hận vào năm 1992, tờ nguyệt san Phụ Nữ Diễn
Ðàn của người Việt Hải Ngoại, số
đặc biệt , có đăng những bài bút chiến, của Bùi
Tín, Bùi văn Tùng, Nguyễn Trần Thiết, Bùi Biên Thuỳ,..
quanh hai chủ đề : ‘ Ai là người đầu tiên vào Dinh
Ðộc Lập ? và Ai là người có thực quyền lúc
đó, nhận sự đầu hàng của TT và Nội Các Dương Văn
Minh ?’
Mượn lại danh từ của những
người cọng sản, trong cuộc đấu võ
mồm vô duyên trên, là họ đã biếm xưng lịch
sử. Vì thật ra cả bọn chẳng có ai là
người đầu tiên bước vào Dinh Ðộc Lập. Mà
từ xa lắc xa lơ, nơi này đã có hằng tá điệp viên
cao cấp Bắc Việt như Vũ Ngọc Nhạ,
Huỳnh Văn Trọng, Phạm Ngọc Thảo, Trần
Ngọc Hiển, Lê Ðình Ẩn,Ðinh văn
Ðệ.đã.bước chân vào rồi..
Riêng việc đầu hàng cọng sản
của Dương Văn Minh, thì cũng chẳng có gì là
lạ, vì Ðại Tướng là Thủ Lãnh
của Lực Lượng Thứ Ba, có chủ trương Phản
Gián qua lớp võ Hòa Giải, để đầu hàng
giặc từ lúc chưa được lên ngôi Tổng Thống vào
những ngày cuối tháng 4-1975. Có khác chăng, là phải đóng
kịch đầu hàng như thế nào, để sau này trước
Tòa Án Lương Tâm và trên trang lịch sử, Tổng
Thống Dương Văn Minh , được trắng án và tiếng thơm là
người yêu nước, vì đã dám hy sinh ở lại
giữa chốn ba quân, trong lúc giặc xâm lăng đã ập
sát biên thành.
Vì vậy từ lúc nhận lời
đuổi Mỹ, tới khi lên đài ra lệnh cho quân đội
buông súng rã ngủ, thời gian từ trưa 29-4-1975 cho
tới trưa 30-4-1975, tổng thống không hề chợp
mắt. Ðây là thời gian dài nhất trong đời làm chính
trị của một vị nguyên thủ cuối cùng
của VNCH, tuy ngắn ngủi nhưng lại bị tai
tiếng nhất trong dòng Việt Sử cận
đại.
Trong lần kỹ niệm 30 năm (4/1975
ố 4/2005), cả nước VN được sống trong thiên đàng
xã nghĩa. Dịp này, trên các báo Khoa Học Phổ
Thông (18) và Thế Giới Mới (631-632), xuất bản
tại thành Hồ,có Phùng Bá Ðạm lớn tiếng
về cái gọi ‘ Bắt Tổng thống Dương Văn Minh và
Nội các Chính quyền Sài Gòn’ vào trưa ngày 30-4-1975
tại Dinh Ðộc Lập. Ðặc biệt trong
những bài viết trên, không hề nhắc tới nhân
vật Bùi Tín,một thời qua tập sách ‘ Sài Gòn
Trong Ánh Chớp Chói Lọi Của Lịch Sử ‘ , lúc nào
cũng to tiếng, nhận là mình cho Dương Văn Minh
đầu hàng.
Vậy đâu là sự thật vì Tổng
Thống Dương Văn Minh giờ đã mất, còn đồng
bào cả nước từ ấy đến nay, sống dưới
thiên đàng xã nghĩa, sau hàng rào kẽm gai, lưởi lê,
họng súng, nên chỉ dám nói viết những lời
đảng dạy, để mà giữ lấy cái mạng cùi
rất mong manh. Vì vậy làm sao, có ai dám nói hết
lời, cho dù rất muốn nói , ngoại trừ những
kẽ cò mồi được đảng dựng lên làm đối
lập qua mấy thúng ‘ dân chủ ‘ nghe thấy rất
tình tứ và lãng mạn.
Nay nhìn lại cuộc tranh giành
quyền lực của các chóp bu trong đảng và thảm
trạng VN sắp diệt vọng trước cuộc xâm lăng
không tiếng súng của giặc Tàu đỏ, Vì vậy,
cho dù ai trong tập đoàn lãnh đạo của đảng
cướp hiện nay, thì cũng chỉ đưa dân tộc và
non sông Việt, đến hố sâu của ngu dốt, nghèo đói
và trên hết là mất nước vào tay ngoại bang. Tất
cả cũng chỉ vì chúng ta trong quá khứ ,đã
thờ ơ với vận nước,phần lớn lại quá
tin vào lãnh đạo, cho dù đó là những sâu bọ hại nước
hại người .
‘ Ba mươi ba năm
rồi, nay quá đủ
hãy đứng
lên tự bẽ gảy xích xiềng
cả tội hèn
làm đất nước đảo điên
giúp cho giặc
thành bạo quyền ác chúa
chôn chúng đi nhưng thây
ma thúi rửa
vứt vào mồ
lũ quan tướng âm binh
để cả
nước quên bớt nổi bất bình
vì trót lở
tin theo phường đạo tặc.. ’ ’
1- TỔNG THỐNG DƯƠNG VĂN MINH ÐI
TÌM HÒA BÌNH Ở CUỐI ÐƯỜNG HẦM
:
Ba muoi ba qua, kể từ ngày Tổng
Thống Dương Văn Minh ra lệnh cho QLVNCH buông súng rả
ngủ, giúp cho cọng sản Bắc Việ, có cơ hội
kết thúc sớm cuộc chiến xâm lăng Miền Nam.
Cũng kể từ đó, đã có nhiều tài liệu
của mọi phía liên hệ tới lịch sử, bật
mí vén màn bí mật những uẩn khúc một thời, mà
nguời Việt đọc tới, cứ tưởng như đang trong
mộng hay đi trên mây, vì tất cả đều do bàn tay
lông lá của ngoại bang dàn dựng.
Riêng về sự nghiệp của tổng
thống cuối cùng của VNCH là Dương Văn Minh, cũng có
rất nhiều nhưng chỉ có các bài viết của ký
giả Pierre Denicron, ‘ SaiGon et Moi ‘ của cựu đại
sứ Pháp là J.M.Mérilon và ‘ Decent Interval ‘ của Frank Sneep.. là
viết rõ ràng nhất.
Theo ‘ Những Ngày Cuối Cùng VNCH ‘ của
Nguyễn Khắc Ngử xuất bản sau năm 1975 tại
Canada, thì ngay khi Bắc Việt vừa chiếm
được Cao Nguyên Trung Phần (QDII) ngày 24-3-1975. Nhận
thấy thời cơ đả tới, Phạm Văn Ðồng lúc
đó là Thủ tướng Bắc Việt, đã ra lệnh cho
bọn phản tặc ăn cơm Quốc Gia thờ ma Hồ,
với cái gọi Lực Lượng Thứ Ba (LLTB) ở Sài
Gòn, công khai ra mặt chống đối Chính Phủ VNCH,
qua trung gian Ðại Sứ Pháp ở Hà Nội là Phillipe
Richer. Ðồng noí : ‘ thế nào ?bao giờ người Pháp
mới hành động ? giờ đã đến lúc các bạn ông
trong phe thứ ba ở Sài Gòn, ra khỏi sự dè
đặt, công khai lật đổ Nguyễn VănThiệu, để
lập chính phủ mới trung lập, mới có đủ tư
cách nói chuyện thương thuyết với chúng tôi ‘.Ðó chính là
lý do mà Ðại sứ Pháp tại Sài Gòn, J.M.Mérillon,
tiếp xúc với LLTB, áp lực Mỹ thay ngựa hết
TT. Thiệu tới TT.Hương và tìm đủ mọi cách đưa
Dương Văn Minh lên ghế Tổng Thống
+ NHỮNG
NGÀY CHUẨN BỊ LÊN NGÔI VUA :
Người Pháp hết bị Nhật rồi
tới VN đánh đuổi ra khỏi Ðông Dương một cách
nhục nhã và thảm bại vào năm 1955, nhưng De Gaule và
thực dân lúc nào cũng hằng nuôi ảo vọng trở
lại làm trùm miền đất này. Bởi vậy không lúc nào
chúng bỏ quên mọi cơ hội, rình rập và chợp
thời cơ để trục lợi. Ðó cũng lý do
Hòa đàm
Ý đồ lưu manh trên, đã được
Mérillon nói một cách công khai và hãnh diện, trong tác
phẩm của mình. Ðó chính là những ngày cuối
tháng 4-1975, giữa lúc VNCH đang hấp hối vì Hoa
Kỳ phản bội, đại bàng bỏ trốn, Việt
gian đâm sau lưng, tạo dịp tốt ngàn năm một thuở,
cho Pháp nhảy vào ăn ké hột hụi chót, được hay thua,
cũng không bị lỗ vốn.
Cũng theo lời kể của vị
cựu đại sứ Pháp, kể từ ngày 18-4-1975, Hoa
Kỳ coi như đã dứt khoát bỏ VN, qua vai trò
của đại sứ Martin. Nói chung người Mỹ nhờ
Pháp thay thế, lo giùm hậu sự cho cái xác của VNCH,
đang hấp hối chờ chôn. Bởi vậy Mérilon đã
liên hệ khắp nơi, kể cả phái đoàn của Bắc
Việt trá hình là VC, do Phan Hiền cầm đầu,
được Mỹ bảo vệ và cho ở làm gián điệp, nơi
trại David nằm trong phi trường Tân Sơn Nhất, để
xúc tiến thành lập một chính phủ MA mới tại
VNCH, gồm ba thành phần Quốc Gia, Cọng sản và
Trung Lập, như lệnh của Phạm Văn Ðồng.
Ðảng đối lập tức Lực
lương thứ ba lúc đó, gồm có Thủ Lãnh là Ðại
Tướng Dương Văn Minh, hợp với Huỳnh tấn
Mẩm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Bá Thành, Huỳnh
Liên, Vũ Văn Mẫu, Lý Quý Chung.. được Mérilon
tiếp kiến ngày 22-4-1975 nhưng tất cả lũ đều
là bọn hề, không có một chút tiếng tăm gì trên
trường chính trị lúc đó, ngoài vai trò làm tay sai phá
hoại, nên bị đuổi về vì không đủ
điều kiện để lọt vào mắt của Bắc
Bộ Phủ. Riêng Dương văn Minh được giữ lại,
chờ nói chuyện với Hà Nội, qua đường dây
chuyển tiếp của Toà đại sứ Pháp tại Sài
Gòn-Tân Gia Ba-Bắc Việt, do Võ Ðông Giang làm
trung gian.
Trong lúc chờ đợi, Ðại sứ
Pháp dâng lên tổng thống tương lai, kế sách bình thiên
hạ, trung lập hóa miền Nam, chung qui cũng vẫn là
vai trò của Pháp, Trung Cộng và Nhật sẽ thay
chân Mỹ làm chủ nhân ông VNCH.
Ðể Miền Nam mau chết, Hoa Kỳ
đã quyết định cắt đứt hết mọi quân
viện, khiến Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
cũng cắt đứt luôn sự liên hệ với Tòa
Ðại Sứ. Bởi vậy, trong đêm 20-4-1975, thân hành
đại sứ Martin phải vào Dinh Ðộc Lập, áp lưc
TT phải từ chúc tức khắc, bằng tối
hậu thư của CS Bắc Việt gửi Mỹ. Tóm
lại TT Thiệu lúc đó chỉ có hai con đường lựa chọn,
một là từ chức TT để giữ mạng, nếu
không sẽ chết như TT Diệm vào ngày 2-11.1963.
Theo luật pháp quốc gia, cũng như
Hiến Pháp và Quốc Hội qui định, nên Phó Tổng
thống Trần Văn Hương lên thay thế chức vụ TT.
Nhưng cụ Trần Văn Hương, từ trước tới nay
vốn nổi tiếng Diều Hâu, điếc không sợ
sấm dù là sấm Chúa hay Phật, một nhân vật
chống Cộng cực đoan, tuổi tuy già nhưng đầu óc
tỉnh táo và cương quyết. Cho nên ông đâu phải là nhân
vật tuyển của thực dân Pháp và giặc xâm lăng
Bắc Việt. Bởi vậy Dương Văn Minh được mời
ra cứu nước, đó cũng là bài bản tuồng tích
đã được các soạn giả sắp xếp, đâu có
gì lạ.
Ðể áp lực với tổng thống
Hương nhường ngôi cho Dương văn Minh, tối 24-4-1975, cọng
sản lại ra thông cáo :
1- Trần văn Hương bù nhìn của
Nguyễn Văn Thiệu, phải ra đi.
2-Mỹ phải rút khỏi VN.
3-Không chấp nhận các cơ cấu của
VNCH hiện tại.
Như vậy việc Dương văn Minh lên làm
tổng thống, theo thông cáo trên, là do ý của
cọng sản Hà Nội, chứ không phải do Hiến
Pháp VNCH quyết định. Ý đồ cướp nước
của giặc đã công khai rõ ràng như ban ngày, vậy
mà Tướng Minh và phe nhóm vẫn mù tịt. Khôi hài nhất là
việc ông đại sứ Pháp, cứ liên tục thúc hối
Tổng thống Trần Văn Hương mau từ chức, để
Dương Văn Minh kịp cứu dân cứu nước ?
Nhưng cụ Hương tuy tuổi già chứ không
lẫm cẩm, hơn nữa lại là thầy của Dương Văn
Minh, nên đâu có lạ gì tánh tình và nhân phẩm
của người học trò mình. Theo ‘ Saigon et Moi’,
chính cụ Hương đã trả lời thẳng với
Mérilon như sau ‘ Nước Pháp luôn hái nho trái mùa, tưởng chọn
ai, chứ Dương văn Minh không phải là hạng người dùng
được, trong lúc dầu sôi lửa bỏng’.
Do các lý do trên, TT Hương không muốn
trở thành một tội nhân thiên cổ đối với
lịch sử, nên đã khôn khéo trao quyền quyết
định cho Quốc Hội và Tối Cao Pháp Viện.
Cuối cùng Tướng Minh được chỉ định làm Tổng
Thống thứ tư của VNCH, vào lúc 20 giờ 45’ đêm
27-4-1975, với tỷ số 132/02. Rồi lễ bàn giao
được diễn ra tại Phòng khánh tiết, Dinh
Ðộc Lập lúc 17 giờ 01 phút, chiều ngày 28-4-1975.
Lần nửa Việt Sử cận đại lại
được lật sang trang nhưng vô cùng ngắn ngủi, vì
tổng thống Dương Văn Minh, chỉ nắm quyền chưa
tới 48 giờ, thì mất nước.
+ 30-4-1975,
NGÀY DÀI NHẤT CỦA TỔNG THỐNG DƯƠNG VĂN MINH :
Theo các tác phẩm dẫn thượng,
thì suốt 40 giờ tham chính, TT Minh và Nội Các
của ông, hoàn toàn làm việc tại Dinh Hoa Lan và dưới
sự chỉ đạo kiểm soát của Ðại sứ
Pháp gần như 24/24. Jean Larteguy, tác giả ‘ L’adieu à Saigon ‘, có
viết rằng cụ Hương trước khi mất, cho tác
giả biết, cả ông, Dương văn Minh lẫn Vũ Văn
Mẫu, đều chẳng liên lạc được gì với
cọng sản Bắc Việt.
Ðiều này cho thấy ông Dương văn Minh cùng
phe nhóm, chẳng có một kế hoạch nào để giải
quyết cuộc chiến, mà mặt thật chỉ là
những người bị cọng sản Bắc Việt
lừa bịp, phỉnh gạt mà thôi. Bởi vậy khi
Dương Văn Minh vừa đăng quang xong lúc 17 giờ ngày 28-4-1975,
lập tức VC cho Nguyễn Thành Trung oanh tạc phi
trường, đồng thời trở mặt tức khắc.
Trong trại David vào đêm 28-4-1975, Võ
Ðông Giang bảo thẳng với phái đoàn thương thuyết
của Dương Văn Minh, gồm Chân Tín, Châu Tâm Luân và Trần
Ngọc Liễng ‘giờ tấn công đã sẵn sàng, nên
Dương văn Minh chỉ có hai điều kiện : Ðầu hàng hay
không Ðầu hàng ‘.Cả ba sứ giả bị giữ
lại làm con tin. Sáng sớm ngày 29-4-1975, Hà Nội lập
tức ra thông cáo, đòi tổng thống Minh cùng nội
các từ chức, giao Miền Nam cho chúng, ban lệnh
đuổi Mỹ, ngưng bắn và đầu hàng vô điều
kiện.
Trong lúc ngoài vòng đai thủ đô, các
đại đơn vị còn lại của QLVNCH đang tử
chiến, để ngăn giặc khắp năm cửa ô, thi Sài
Gòn đã hỗn loạn vì sự trốn
chạy của Mỹ bằng trực thăng trên mái
nhà.Nhiều phi công vì ham sống, đã bỏ
chiến đấu, bỏ đồng đội đang tử chiến
dưới đất, bay sang tận Thái Lan, trả máy bay cho
Mỹ để đước tới định cư ở Hoa Kỳ. Theo
W.W.Monyer trong ‘ Vietnammese Airforce (1955-1975), thì Mỹ
đã thu hồi lại được 132 phi cơ đủ loại,
qua lệnh của Phụ tá Bộ trưởng Quốc
Phòng Mỹ, lúc đó là R.Armitage và E.V Marbod. Các đại bàng
lớn nhỏ lần lượt chắp cánh tung trời ,
từ TT Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Ðại Tướng
Viên, Quang rồi Ðồng văn Khuyên, Vĩnh Lộc,
Nguyễn văn Chức, Nguyễn văn Toàn.. đều ra đi.
Tóm lại
giặc đang còn tận Biên Hòa, Bến Cát, Long
Thành, Củ Chi và Long An.. thì Bộ Tổng Tham mưu,
Bộ Tư Lệnh KQ,HQ, BTL QDIII và Biệt Khu Thủ Ðô
đã tan hàng, khiến Tổng Thống Minh như cua gãy
càng, đành gọi bọn sâu bọ Nguyễn Hửu Có,
Nguyễn Hữu Hạnh, Triệu Quốc Mạnh vào dinh,
cho mang lon trở lại, để giúp ngài có đủ can đảm
đầu hàng giặc. Tổng thống đã thức
trọn đêm, cho tới sáng 30-4-1975, để bin một canh bài
xì phé khi con tẩy của mình chỉ là lá bài
lũng, để định một sự kiện lịch
sử, mà thật ra khả năng của ông, vốn không bao
giờ có thể vói tới được.
Từ 7 giờ sáng ngày 30-4-1975, Nguyễn
Hữu Thái tới Chùa Ấn Quang, yêu cầu Thượng
Tọa Trí Quang, dùng uy tín khuyên Dương văn Minh đầu hàng. Chính
cuộc điện đàm ngắn ngủi giữa Trí Quang,
Nguyễn Hữu Thái và bộ ba Minh, Mẫu và Lý
Quý Chung , khiến Dương văn minh, quyết định đầu
hàng giặc sau một đêm dài thức tron đủ năm canh.
+
NGUYỄN ÐÌNH ÐẨU LÀM SỨ GIẢ HÒA
BÌNH :
Vào ngày 30-4-2005 tại Sài Gòn, VC có đưa
bốn nhân vật liên quan tới những giờ phút
cuối cùng của VNCH vào tháng 4-1975 lên TV phỏng vấn :
Ðó là Nguyễn Hửu Có, Nguyễn Hửu Hạnh,
Phạm Quốc Mạnh và Nguyễn Ðình Ðẩu.
Trong 4 người, Có, Hạnh và Mạnh là sĩ quan cao cấp
của QLVNCH. Riêng Ðẩu là một nhà nghiên cứu
địa bạ rất nổi tiếng, qua các sách đã
xuất bản, trong đó có tỉnh Bình Thuận xưa.
Qua hồi ký đăng trên ‘ Thế Giới
Mới số 385 ‘, xuất bản tại thành Hồ vào năm
2000, Ðẩu cho biết mình là một trong 4 sứ
giả hòa bình, vào những ngày cuối tháng 4-1975,
được Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, mời
vào phái đoàn, đến trại David là nơi đóng quân của Phái đoàn
Bắc Việt, trong phi trường Tân Sơn Nhất, để
thương thuyết ngưng bắn. Ðẩu viết :
Ngày 29-4-1975 : Lúc 6 giờ 30 sáng, Ðẩu
đi tìm Nguyễn Văn Huyền, mới được TT Minh phong
chức ‘ Phó Tổng thống đặc trách hòa đàm ‘.Theo
Ðẩu, lúc đó chính phủ Dương Văn Minh chưa có ai liên lạc
hay tiếp xúc với phía bên kia. Do đó Ðẩu xung phong, cùng
với Nguyễn Văn Diệp (Tổng trưởng kinh tế
thương mại vừa mới phong), Nguyễn Văn Hạnh (Nhà
thầu), Tô Văn Cang (kỹ sư). Lúc 11 giờ 15 cả bọn
vào trại David bằng công xa của Bộ trưởng
Diệp, có cận vệ, nhưng trống không vì phái đoàn
VC đã rút đi hết. Lúc 13 giờ 30, theo lệnh
Nguyễn Văn Huyền, Ðẩu viết lời tuyên bố
của Chính phủ VNCH, chấp nhận điều kiện
của VC đòi hỏi ngày 25-4-1975., sau đó được đọc trên
đài phát thanh Sài Gòn vào lúc 14 giờ 30’.
Lúc 19 giờ cùng ngày, Ðẩu cùng
Nguyễn Văn Huyền vào Dinh Hoa Lan gặp Tổng Thống
Minh và cho biết ‘ Giải pháp chính trị chấm dứt
chiến tranh ‘ đã không thể thực hiện được,
vì Bắc Việt không chấp nhận trong lúc đang
thắng thế quân sự.. Ngày 30-4-1975, lúc 7 giờ 30 sáng,
Ðẩu lại theo Nguyễn Văn Huyền, đi trên công xa
của Tổng thống, tới họp tại Văn
phòng Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, ở số 7
đường Thống Nhất. Theo Ðẩu, ngay trên xe lúc đó,
Huyền nói với đương sự bằng tiếng Pháp ‘
Phải đầu hàng ‘.
Tại Phủ Thủ tướng lúc 8 giờ
30 sáng, bộ ba Minh, Huyền, Mẫu hợp kín. Lúc 9
giờ 15, cũng tại đây, TT Minh dùng điện thoại,
đọc lệnh ngưng bắn đơn phương trên Ðài Phát thanh Sài
Gòn và Quân Ðội. Lúc 9 giờ 30 cùng ngày, bộ ba Minh-Huyền-Mẫu
và nhiều người trong nội các, dùng công xa kéo về Dinh
Ðộc Lập, chờ Cộng Sản Bắc Việt
tới giao quyền hành. Dịp này Ðẩu cũng tháp
tùng nhưng lại bỏ về nhà, nên cho biết không
chứng kiến những gì đã xảy ra tại
Dinh Ðộc Lập, vào lúc 11 giờ 30 khi xe tăng Bắc
Việt có mặt ở đây.
2 - NGÀY 30-4-1975 TẠI DINH ÐỘC
LẬP, TT DƯƠNG VĂN MINH ÐẦU HÀNG HAY BỊ QUÂN CỘNG
SẢN BẮC VIỆT BẮT ? :
Theo Nguyễn Khắc Ngữ, thì sau
khi cuộc di tản của người Mỹ trên mái nhà
chấm dứt vào 7 giờ sáng. Lúc đó Tổng thống Dương
Văn Minh cũng chưa biết là mình phải làm gì
trước giờ thứ 25 của VNCH. Tuy nhiên xung quanh
lại có nhiều thành phần trở cờ, thân hay là VC
nằm vùng xúi giục, nhất là Vũ Văn Mẫu, Lý
Quý Chung, Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Hữu
Hạnh, Phạm Quốc Mạnh.. bởi vậy đã ra
TUYÊN CÁO ÐẦU HÀNG, thâu băng ở Dinh Thủ tướng và
được Ðài phát thanh Sài Gòn, phát lúc 9 giờ sáng,
với nội dung :
“ Ðường
lối chủ trương của chúng tôi là Hòa Giải và
Hòa Hợp Dân Tộc, để cứu vãn sinh
mệnh của đồng bào. Chúng tôi tin tưởng sâu-xa vào
sự hòa giải của người VN với nhau,
để phải khỏi phí phạm xương máu của người
VN chúng ta . Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các
anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ
súng và đâu ở đó . Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến
sĩ Chính phủ Lâm thời miền Nam VN hãy ngưng
nổ súng. Chúng tôi đang ở đây chờ gặp Ðại
diện Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam
VN, để cùng nhau thảo luận, về việc bàn giao
chính quyền, trong vòng trật tự và tránh sự
đổ máu vô ích của đồng bào .”
Sau đó Nguyễn Hữu Hạnh, mới
được TT.Dương Văn Minh gắn lon Chuẩn tướng và phong
chức Phụ tá Tổng Tham mưu mưởng QLVNCH lúc đó là Trung
tướng Vĩnh Lộc. Vì tướng Lộc đã di
tản hồi sáng sớm, nên Hạnh phải thay thế
đọc NHẬT LỆNH , với đại ý bắt QLVNCH
phải tức khắc tuân lệnh TT. Dương Văn Minh, buông súng
đầu hàng Cộng Sản Bắc Việt. Chính lời tuyên
bố đầu hàng của Dương Văn Minh, đã làm tan rã
ngay QLVNCH, một Quân đội hào hùng, dũng liệt, lúc đó dù
đã bị Hoa Kỳ bán đứng và bỏ rơi nhưng vẫn
can trường tiếp tục chiến đấu với kẻ
thù xâm lăng phương Bắc.
Những
tướng lãnh Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng,
Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Lê Minh Ðão, Lý
Tòng Bá, Trần Quang Khôi, Lê Văn Thân, Ðổ Kế
Giai.. người quyên sinh chết, kẽ vào tù khổ sai
tại các trại giam ở tận biên giới Việt
Bắc. Riêng đồng bào cả nước cũng cùng chung
số phận với người linh, chịu cảnh hẳm
hiu, lầm than.suốt ba mưoi ba năm qua, dưới chế
độ tham tàn bạo ngược, mà Tổng thống Dương văn
Minh và phe nhóm, đã vô tình hay cố ý, lót
đường, trải thảm , rước giặc vào tàn sát
đồng đội, đồng bào.qua danh từ hoa mỹ “
Hòa hợp, hòa giải dân tộc “.
Ðầu hàng để bom đạn khỏi tàn
phá Sài Gòn và tránh bớt đổ máu cho đồng bào, vào
những ngày cuối tháng tư quốc hận. Nhưng Sài Gòn
và cả nước vẫn bì tàn phá hũy diệt,
đồng bào cả nước vẫn đổ máu gục ngả,
ngay sau khi Cộng Sản Bắc Việt chiếm được
cả nước ngày 1-5-175. Chết nào cũng chết, tàn phá
nào cũng là hũy diệt. Vậy tại sao không để
cho QLVNCH và đồng bào chết một cách oanh liệt khi
đối mặt với giặc thù, mà lại bắt họ
và đất nước phải chết đau hận nhục.
dưới gót giầy xâm lược của Ðế quốc
Ðệ tam Cộng Sản ?
Có một sự kiện lịch sử
cần phải viết nhớ, là lúc Dương văn Minh cùng phe nhóm
vừa từ Dinh Thủ tướng về Dinh Ðộc
lập, đã thấy trong sân cỏ có rất nhiều
Chiến xa M48 của VNCH nhưng đã bị Tổng
thống ra lệnh trở về đơn vị, để chờ
đầu hàng. Cũng vì vậy mà Tăng 54 của Bắc
Việt mới phách lối ủi xập được cửa
sắt của Dinh Ðộc lập và những trận
giặc miệng trên báo chí trong và ngoài nước, của Bùi
Tín, Bùi văn Tùng, Bùi Biên Thùy và mới đây thêm Nguyễn
Ðình Ðẩu, Phùng Bá Ðạm, Sương Nguyệt Minh,
Nguyễn Khang Thái.. về cái gọi là ‘ Bắt Dương Văn Minh
tại Dinh Ðộc Lập ‘.
Ngày nay đọc ba quyển hồi ký
của Võ Nguyên Giáp và Bộ Chung Một Bóng Cờ
của Tập đoàn Giải Phóng Miền Nam gồm Nguyễn
Hửu Thọ,, Trần Nam Trung, Trần Bạch
Ðằng, NguyễnThị Bình.. viết chung, do Nhà
xuất bản Chính trị của Ðảng độc
quyền phát hành , qua những tiết lộ về các bí mật
hậu trường chính trị miền
Còn Ðại tướng Dương Văn Minh,
Tổng thống hai ngày cũng là tổng thống chót
của VNCH, ngoài việc dùng quyền hành vua nước và
tổng tư lệnh quân đội, bắt QLVNCH buông đầu hàng
rã ngủ. Sau ngày 1-5-1975, còn Họp báo công bố
‘ Chính Sách Khoan Hồng Của Cách Mạng ‘ và nói ‘ Riêng cá
nhân tôi rất hân hoan, vì cho tới năm 60 tuổi , tôi
mới được trở thành công dân của một nước VN
độc lập, tự do ‘.
Về chuyện gì đã xảy ra
trong Dinh Ðộc Lập, vào trưa này 30-4-1975, hiện
đã có rất nhiều tài liệu của cả hai phía,
cũng như ngoại quốc ghi nhận. Nói chung tất
cả sự kiện gần giống nhau, chỉ có khác
biệt là ai cũng dành công, việc bắt TT Dương Văn Minh và
Nội các VNCH, là của mình.
+
NGUYỄN KHẮC NGỮ :
Viết trong ‘ Những ngày cuối cùng
của VNCH ‘ cho biết vào lúc 12 giờ 30 ngày 30-4-1975, lúc
quân Bắc Việt do Bùi văn Tùng chỉ huy, đã vào
được bên trong Dinh Ðộc Lập. Về phía VNCH,
tại phòng Khánh Tiết , hầu như có đủ các nhân
vật thuộc phe nhóm DVM và nội các của Thủ
tướng Vũ Văn Mẫu, tất cả đang ngồi trên ba
hàng ghế chờ. Chính TT.Minh đã ra đón cán binh Bắc
Việt , tận cửa Phòng Khánh Tiết và nói về
việc ban giao. Nhưng chúng nhất định không chịu,
đòi Dương Văn Minh phải đầu hàng VÔ ÐIỀU
KIỆN và cho biết TUYÊN CÁO phía VNCH do Minh và Hạnh vừa
đọc, không có giá trị. Sau cùng Lê Văn Minh nói thẳng là
Dương Văn Minh đã bị bắt, thì còn gì
để bàn giao.
Biết mình đã lở dại, nên
TT Minh, Thủ tướng Mẫu đành để cho giặc áp
giải tới Ðài phát thanh, ra lệnh cho QLVNCH buông súng
đầu hàng vô điều kiện, đồng thời tuyên bố
giải tán Chính quyền VNCH, từ trung ướng trở
xuống địa phương. Còn Vũ văn Mẫu thì nhân
danh Thủ tướng chính phủ, kêu gọi đồng bào hoan
hĩ đón giặc vào.
+ BÙI TÍN CÓ
BẮT ÐƯỢC DƯƠNG VĂN MINH ?
Ðây là bài viết của Bùi Văn Tùng,
trả lời Thành Tín, tức Bùi Tín qua ‘ Sài Gòn trong ánh
chớp chói lọi của lịch sử ‘, được VC in và
phát hành năm 1978. Trong bài viết của Thành Tín, cho biết
Bùi Văn Tùng, Chính Ủy Lữ Ðoàn Thiết giáp 203, đã
áp giải TT Minh và Thủ tướng Mẫu, từ Dinh
Ðộc Lập tới Ðài phát thanh Sài Gòn, rồi
tự Tùng và Thệ viết ‘ Bản Tuyên bố đầu hàng
‘ đưa cho Tổng thống đọc nhưng Minh không muốn dùng
chức vụ ‘ Tổng thống ‘, mà chi muốn xưng danh
hiệu ‘ Ðại tướng ‘.Cuối cùng trước mũi
súng, Tổng thống kiêm Ðại tướng Dương Văn Minh, đã
phải tuân hành theo mọi mệnh lệnh.
Năm 1992, Bùi văn Tùng có viết một bài liên
quan tới các sự kiện trưa ngày 30-4-1975 tại Dinh
Ðộc Lập, Sài Gòn. Trong bài viết, Tùng cho
biết sau năm 1975, Bùi Tín có làm một Bộ phim về
chiến tranh VN nhưng Tùng đã tố Tín, cố tình
đạo diễn, để cho mọi ngưởi tưởng lầm,
chính Tín đã bắt và buộc Dương Văn Minh đầu hàng.
Cuối cùng Bùi văn Tùng xác nhận Bùi Tín đã có mặt
tại Dinh Ðộc Lập vào chiều ngày 30-4-1975, qua tư
cách một nhà báo phóng viên. Nhưng theo Tùng, thì việc
bắt Tổng Thống Minh đầu hàng vào lúc 13 giờ 15 ‘
tại Ðài phát thanh Sài Gòn, chứ không phải Dinh
Ðộc Lập. Sự thật là thế nào, chỉ có TT
Minh mới biết, tiếc thay ông đã không còn
để trả lời.
+
NGUYỄN TRẦN THIẾT :
Thiết là một nhà báo Bắc Việt,
cho biết vào lúc 12 giờ 12 ‘, Ðại tá CS Nam Long lúc đó
đang có mặt Trong Dinh Ðộc Lập, đã tiếp phái
đoàn báo chí phe mình, trong đó có Bùi Tín. Thiết cho biết
mình vào Dinh DL, với nhiệm vu phỏng vấn TÙ BINH
VNCH có mặt tại chỗ lúc đó, gồm TT kiêm Ðại
tướng Dương Văn Minh , Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn
Mẫu.. Theo Thiết, vì chỉ trong mấy ngày, mà VNCH
đã thay đổi ba lần nội các , qua các Thủ
tướng Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Bá Cẩn, cuối
cùng là Vũ Văn Mẫu, nên quá nhiều ông lớn, nên
chẳng biết đâu mà mò.
Trong bài của Thiết, có nhắc tới
việc Bùi Tín chửi Dương Văn Minh khi Tổng thống
đòi bàn giao Chính quyền với MTGPMN ‘ Nhưng ông đâu có chính
quyền để bàn giao ? Người ta không thể giao cái
gì không có trong tay bọn Ngụy quyền cũ từ
dưới lên trên đã sụp đổ hoàn toàn ‘.Nhưng Minh
vẫn có cãi ‘ Các ông có thấy Sài Gòn không đổ
máu ? đó là mơ ước của tôi ‘.Và đã được Bùi Tín
trả lời ‘ Ðúng, Sài Gòn gần như không đổ
máu, không bi tàn phá. Ðó là do sức áp đảo và khí thế
thần tốc của cách mạng ‘.
Mai mĩa nhất là Nguyễn văn Hảo lúc
đó đòi được bắt tay với bộ đội Bắc
Việt và khoe chính mình đã ngăn cản không cho
bất cứ kẻ nào phá hoại nguồn lợi kinh
tế của nước ta. Kho bạc còn, vàng dự
trữ còn. Công lao của tụi này đấy..
Tóm lại, tại Dinh Ðộc Lập
ngày 30-4-1975, theo Nguyễn Trần Thiết thì chính Sáu
Hoàng Cao Minh Chiếm, mới là người Ðại diện
chính thức của Bắc Việt, chấp nhận sự
đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh và nội
các.
Riêng Nguyễn Hửu Hạnh nhờ năm
vùng, nên sau tháng 5-1975 được Cộng Sản thưởng công
làm Ủy viên Ủy Ban Mặt Trận GPMN, thành phố Sài
Gòn-Gia Ðịnh rồi lên Ủy viên Ủy Ban Trung
Ương Mặt trận Tổ Quốc VN.
+ PHÙNG BÁ
ÐẠM :
Tháng 4-2005, trên báo Khoa học phổ thông
số 18 xuất bản tại Thành Hồ, có đăng bài ‘
Gặp lại một nhân chứng lịch sử ‘ của
Nguyễn Khang Thái ‘.Bài viết ghi lại lời kể
của Phùng Bá Ðạm, tự nhận thuộc Trung đoàn
66, Sư đoàn 304, Quân đoan 2, là đơn vị đã vào Dinh Ðộc
Lập đầu tiên ngày 30-4-1975. Theo Ðạm kể, khi xe
tăng Bắc Việt còn cách Dinh Ðộc Lập
khoảng 300m, thì Tô Văn Thành,thuộc Ðại đội
3, Tiểu đoàn 7, ngồi trên xe tăng trúng đạn chết.
Vì vậy khi tới gần Dinh DL, xe tăng VC đã
mở hết tốc lực ủi sập cổng và
tiến vào sân cỏ trước dinh.
Nhờ các nhà báo hướng dẫn, Phạm
Xuân Thệ, Phùng Bá Ðạm, Ðào Ngọc Vân.. với lá
cờ của MTGPMN chạy lên lầu và gặp Nguyễn
Hửu Hạnh ở tầng 2, đón đưa vào phòng khánh
tiết, lúc đó đã có TT Minh và nội các đang ngồi
chờ đầu hàng. Do Ðài phát thanh Sài Gòn lúc đó đã
ngưng hoạt động, nên Thệ, Ðạm áp giải TT Minh
và Vũ Văn Mẫu, tới nơi để lên đài, mặc dù
Ðại tướng cố từ chối.
Trên đường tới Ðài phát thanh, ngồi
trên xe Jeep do Ðào Ngọc Vân lái. Ở băng trước TT Minh
ngồi với Phạm Xuân Thệ. Còn Vũ văn
Mẫu, Phùng Bá Ðạm, Ðinh Thái Quang cùng 2 bộ
đội, ngồi phía sau.
Ðài phát thanh Sài Gòn lúc đó đã
bị Tiểu đoàn 8 Bắc Việt chiếm. Chính bản
văn ‘ Tuyên bố đầu hàng ‘, mà TT Dương Văn Minh đọc trên đài,
là do Phạm Xuân Thệ, Ðinh Thái Quang, Trịnh Ngọc
Ước và Phùng Bá Ðạm đạo diễn. Lúc này Trung tá Bùi
văn Tùng, Chính Ủy Lữ đoàn 203 Thiết giáp cũng vừa
tới. Theo Ðạm kể, vì lúc đó trong bọn, Bùi
văn Tùng có cấp bậc cao nhất, nên thay mặt quân
Bắc Việt, chấp nhận lời đầu hàng của
TT Dương Văn Minh, vào lúc đồng hồ chỉ 11 giờ 30 ‘,
ngày 30-4-1975.
Kể từ giờ phút đó Sài Gòn tan
hoang và thê thảm nhất là tại Tòa Ðại
sứ Mỹ, nằm trên đường Thống Nhất-Mạc
Ðỉnh Chi. Phủ Thủ tướng Mẫu, cả con
dấu cũng lăn lóc dưới sàn gạch. Trong Bộ
Quốc Phòng, Tổng Nha Cảnh Sát, Bộ Tổng
Tham Mưu.. đâu đâu cũng ngổn ngang xe Jeep, súng ngắn.. mà
người xưa đã đi đâu mất.
Từ đó người VN chịu cảnh
đổi đời. Tất cả đều bị Rợ Hồ
gọi là Nguỵ, lính tráng là Ngụy quân, công chức là
Ngụy quyền và đồng bào Miền
Cũng từ đó dân chúng căm hờn, đổ
hết mọi trach nhiệm cho ông Dương văn Minh, một
tổng thống cuối cùng của VNCH, vì ngu muội
khiến cho dân chúng lầm than dưới chế độ
bạo tàn của đệ tam quốc tế, tạo cợ
hội cho đảng cọng sản VN, đem đất đai biển
đảo, tài nguyên quốc gia, nhượng bán cho kẻ thù không
đội trời chung của Dân Tộc là Trung Cộng.
Thế là cuộc bút chiến xảy ra công khai trên báo chí
hải ngoại giữa hai phe thương và ghét Dương Văn Minh.
Người ta trách ông Minh không phải là trách
ông đã ra lệnh cho QLVNCH buông súng đầu hàng giặc,
nhưng trách ông, tự biết mình là người rất
ấu trĩ về chính trị, từng là bại tướng
của Khánh, Khiêm, Thiệu nhiều lần. Tài năng như
vậy, mà dám xưng phong ra nhận lãnh trách nhiệm
cứu nước trong giờ thứ 25, khiến cho nước
non phải thảm nhục.
Người ta trách ông Minh ham sống sợ
chết, không biết hành xử xứng đáng với cương
vị và thân phận của mình. Ðường đường
là một Ðại tướng, Lãnh tụ phe thứ ba
và trên hết là Tổng thống của một nước
nhưng ông Dương Văn Minh, đã cố tình làm ngơ, các gương
trung liệt nghĩa khí của người xưa, gương anh hùng
bất khuất của thuộc hạ trước mắt ‘
Chết để giữ tròn khí tiết, chết vinh hơn
sống nhục ‘.
Thật vậy hoàn cảnh của
tướng Minh, đâu khác gì thảm trạng của hai
tướng giữ thành Bình Ðịnh, vào năm Tân Dậu
1801. Lúc đó thành bị Tây Sơn vây hãm lâm vào cảnh
tuyệt lộ, trong không lương ngoài chẳng binh cứu. Trong
nổi tuyệt cùng, Võ Tánh và Ngô Tùng Chu đã viết
thư cho tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu ‘ Phận ta làm
chủ tướng, thì đành liều chết dưới
cờ. Còn tướng sĩ và dân chúng không có tội
tình gì, không nên giết hại ‘.Sau đó Võ Tánh
tự đốt chết, còn Ngô Tùng Châu uống thuốc
độc quyên sinh.
Trưa 30-4-1975, khi TT Minh ra lệnh QLVNCH buông
súng đầu hàng. Nhiều binh sĩ đang chiến đấu
tại mặt trận đã tự tử chết,
vì họ không muốn đối mặt với kẻ thù
tàn ác dã man. Các tướng lãnh Phạm Văn Phú (Tư
Lệnh QD2), Nguyễn Khoa Nam (Tư lệnh QD4), Lê văn Hưng (Tư
Lệnh Phó QD4), Lê Nguyên Vỹ (Tư lệnh SD5BB), Trần Văn
Hai (Tư Lệnh SD7BB).. kẻ trước người sau, quyên sinh
để bảo toàn khí tiết cho quân đội Miền
Trái lại Ðại Tướng cũng là
Tổng thống Dương Văn Minh, khúm núm ra trình diện
trước các tên cán binh tép riu của Bắc Việt như Bùi
Quang Thận, Ðại Ðội Trưởng, DD Chiến Xa,
để rồi bị tên chủ nhiệm chính tri của đoàn
xe tăng mang số 203 là Lê Văn Minh nạt nộ :’ các anh
đã bị bắt, không có bàn giao gì cả ‘.
Mới đây đào hát cởi truồng một
thời phản chiến Jane Fonda, vì muốn quảng
cáo cho một tuỳ bút nói về chuyện tình của
mình, đã lên đài CBS, nhỏ những giọt nước
mắt cá sấu, để nhận tội phản quốc
với Hoa Kỳ, khi ả sang Bắc Việt, vào năm 1972,
ngồi trên các khẩu cao xạ chửi Mỹ. Câu
chuyện khôi hài của đám con buôn chính trị thập thành cũng
chẳng có gì lạ nhưng đối với người
Việt tị nạn, thì lại có một ý
nghĩa, vì ít ra cô đào hát còn có can đảm nhận
sự sai lầm của mình. Trong lúc đó thử hỏi
những kẻ từng đâm sau lưng người lính đã hy sinh
cho họ, hiện nay đang sống nơi hải ngoại, có ai dám
muối mặt như Fonda để nhận sai trái năm nào, dù
thời gian tới 33 năm và mặt nào phản chiến,
phản tặc, tới nay ai cũng đều biết.
Thanh niên nam nữ, miền Nam VN, thế
hệ sinh từ 1900 về sau, thường mượn tư
tưởng làm trai của Nguyễn Công Trứ, để làm hành trang
xử thế khi vào đời :
‘ Ðã mang tiếng đứng trong
trời đất
phải có danh gì với núi sông ‘
Còn ông Dương văn Minh lại là một nhân
vật lớn của lịch sử, tại sao không
vì lịch sử, mà lưu lại cho hậu thế cái khí
tiết ‘ Nhất Tướng Công Thành, Vạn Cốt Khô ?’
Thì ra con người cũng có năm bảy
hạng người .
Ngày 29-4-1975
Dương Văn Minh làm tổng thống ra lệnh cho quân dân Miền
Nam đầu hàng CS Bắc Việt, khiến cho cả nước
phải sống trong cảnh cùm gông địa ngục, hận
tủi trùng trùng vì giặc Hồ bán nước cầu vinh.
Ngày 29-4-2008, tập đoàn lãnh đạo Bắc Việt
mở cửa để đón Tàu đỏ vào VN, qua vở tuồng
rước đuốc thế vận Bắc Kinh 2008. Cùng chung
một ý nghĩa ‘ thể thao ‘ nhưng tại các quốc
gia khác, đuốc máu của Tàu đỏ , được đón hay bị
tẩy chay là do người dân quyết định. Trái lại
tại VN, chính quyền gần như công khai hoan hô đuốc máu
của giặc, hết lòng bảo vệ và cấm
tuyệt dân chúng trong nước biểu tình phản
đối. Ðau nhất là đuốc máu của giặc sẽ
ra tận Hoàng Sa & Trường Sa của chúng ta, để
biểu dương cho thế giới biết là VN ngày nay chỉ
còn là một quận huyện của thiên triều.
Non nước điêu linh mạt rệp tới
độ không còn chữ nghĩa nào để mà diễn
tả cho hết niềm đau nổi nhục này nhưng biết
làm sao hơn ?
TÀI
LIỆU THAM KHẢO :
- Những ngày
cuối cùng của VNCH ốNguyễn Khắc Ngử
- VN. Niên Biểu
Nhân vật Chí của Chánh Ðạo
- Nam Kỳ Lục
Tỉnh (IV) của Hứa Hoành
-Ðôi dòng ghi
nhớ của Phạm bá Hoa
-QLVNCH trong giai
đoạn hình thành của Bộ TTM.
-Những bí
mật cuộc cách mạng 1-11-1963 của Lê Tử Hùng
-Hồi ký
của Nguyễn Chánh Thi
-Les Guerres du VietNam
của Trần văn Ðôn
-
-sách vở bao chí
KBC,PNDD,TP..
Xóm Cồn
Tháng 4
Quốc Hận 2008
MƯỜNG
GIANG