QUÂN
ĐỘI VIỆT
LS Đỗ Thái Nhiên
Lúc bấy giờ là tháng năm,
1985, người Việt Nam tại quốc nội, nhất là
dân chúng cư ngụ vùng Saigòn, Gia Định, vẫn nô
nức nhưng kín đáo tìm đường vượt biên. Trong trường hợp âm mưu vượt biên thất
bại, người vượt biên sẽ bị Cộng Sản
Việt
Chính
vì hai chữ "bảo mật", nhiều
người đã ra khơi một cách hoàn toàn bất ngờ,
không một lời giã biệt bằng hữu. Riêng tôi,
tôi nhất định vượt biên, nhất định bảo
mật, nhất định ân cần thăm
viếng và từ biệt bạn bè cũ. Nhằm
đáp ứng các "nhất định" vừa nêu, một
ngày trước khi rời xa quê hương, tôi quyết định
tìm gặp những người bạn đặc biệt
của tôi. Những người bạn đó
hoàn toàn kín tiếng. Những người bạn đó không
còn bận tâm chọn lựa đời sống ở bên
này hay bên kia bờ đại dương. Những
người bạn đó đã đi trọn đường trần
bằng tất cả gian khổ với một ước mơ
bất thành: ước mơ Việt
Chiều
hôm ấy, khoảng ba giờ, một mình tôi thẫn
thờ bước vào nghĩa trang Biên Hòa. Bức tượng Thương Tiếc nằm ở ngay
cổng đã bị mang đi nơi khác tự bao giờ.
Con đường từ xa lộ chạy vào tới đài kỷ
niệm Chiến Sĩ Trận Vong vẫn còn đó,
vẫn dài, vẫn thẳng, nhưng hai hàng phượng đứng
bên đường trông thật tiều tụy và ủ dột. Có thể vì phượng thiếu nước,
thiếu gió. Có thể vì phượng muốn
biểu tỏ tấm lòng trắc ẩn của cỏ
cây dành cho hàng ngàn anh linh chiến sĩ đã vị
quốc vong thân nhưng nay phải ngậm đắng nuốt cay
nơi suối vàng trước cảnh "quốc" đang bị
đè bẹp dưới ách độc tài Cộng Sản. Vào tới
khu dành cho mộ phần của chiến sĩ, khách
viếng mộ tận mắt chứng kiến toàn thể
nghĩa trang đều bị đập phá tàn nhẫn. Đây là một ngôi mộ bị đào bới để
lộ cả quan tàI mở nắp, di cốt tử sĩ
đã biến mất. Kia là một ngôi mộ nằm
ở triền đồi, bia đá vẫn
còn nguyên nhưng di ảnh của ngườI quá cố có
dấu vết vài phát đạn vào mắt, vào miệng. Kế
đó là nơi an nghỉ của một sĩ quan cấp tá, trên bia đá, người nào đó lấy sơn đen viết
một câu giễu cợt, rất phản văn hóa.
Cứ như
vậy, khách viếng nghĩa trang lần lượt ghi
nhận vô số hình ảnh não nề của
một nghĩa trang bị nhận xuống tận cùng
của hố ô nhục. Mặc cho ô nhục chồng chất,
toàn bộ mộ phần của nghĩa trang Quân Đội
Biên Hòa vẫn lặng lẽ hướng về đài
chiến sĩ trận vong. Đài này nằm
trên đỉnh một ngọn đồi tọa lạc tại
trung tâm nghĩa trang. Kiến trúc
trọng yếu của đài chiến sĩ trận vong là
một tháp xi-măng xám, cao vời vợi. Tháp
này gợi nhớ hình ảnh cây bảo kiếm
của người chiến sĩ vô danh năm xưa đã để
lại nơi dương thế trước khi đi vào cõi vĩnh
hằng. Từ cõi vĩnh hằng xa xăm kia, người ta vẫn nghe vang vọng một
câu hỏi, nửa như kinh ngạc, nửa như phẫn hận:
tại sao nghĩa trang của những anh hùng vị
quốc vong thân lại có thể bị lăng nhục???
Bây giờ nhiều năm
đã trôi qua... Bây giờ những xót xa về cảnh
tượng hoang phế và cô tịch của nghĩa trang Quân
Đội Biên Hòa đã lắng đọng... Bây giờ
những uẩn ức về lệnh buông súng tức
tưởi đã trôi xa vào quá khứ... Bây giờ thời gian
là năm 2002, một chiều tĩnh lặng cuối thu. Không gian là công viên tượng
đài chiến sĩ Việt Mỹ thuộc thị xã
Tôi ngồi
tựa lưng vào chân tượng đài, trầm ngâm suy nghĩ về
quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
I. Phương pháp đánh giá một Quân Ðội.
Trước
tiên, tôi nghĩ tới những luận cứ chê trách QĐVNCH. Có
người nêu rõ danh tánh vài ba ông tướng buôn lậu
để đơn giản cho rằng QĐVNCH là quân đội buôn lậu.
Người khác đã viện dẫn trường hợp đào ngũ, nghịên ngập của năm bẩy
quân phạm trong quân lao Gò Vấp để vội vàng
kết luận: QĐVNCH là quân đội vô kỷ luật. Người khác nữa đã kể lại câu
chuyện một quân nhân đầu hàng địch quân trên trận
địa đê? Nhanh chóng nhận định QĐVNCH là quân đội
hèn nhát... Tất cả các đánh giá vừa
kể hiển nhiên là kiểu đánh giá xuất phát từ
những người rất giầu ác ý nhưng vô cùng nghèo
nàn hiểu biết về phương pháp đánh giá. Làm thế
nào để chúng ta có thể đánh giá một tập thể trên
căn bản chừng mực và nghiêm chỉnh?
Đi tìm
giải đáp cho câu hỏi vừa kể, có lẽ chúng ta nên
suy nghĩ về một phương pháp đánh giá trong khoa kinh tế
học. Mỗi khi tổng sản lượng
quốc gia gia tăng, chưa hẳn người dân được sống
trong thịnh vượng. Những năm
gần đây, tổng sản lượng quốc gia Việt
Lợi nhuận của sinh
hoạt kinh tế phải là lợi nhuận chung
của toàn bộ xã hội. Lợi nhuận kia phải được phân bổ hợp lý
cho toàn dân. Thế nhưng CSVN đã cưỡng
chiếm lợi nhuận kinh tế cho đảng CS và cho cá
nhân đảng viên nhất là đảng viên thuộc giai cấp
tư bản đỏ. Đó là lý do giải thích tại sao
tổng sản lượng quốc gia VN gia tăng nhưng hai chữ
"thịnh vượng" vẫn là ngườI khách cực
kỳ xa lạ đối với quần chúng nghèo túng. Vì
vậy, muốn so sánh mức độ thịnh vượng
giữa hai hay nhiều nền kinh tế, các chuyên viên kinh
tế phải đồng thuận với nhau về một người
tiêu thụ mẫu mực gọi là "kinh tế nhân".
Kinh tế nhân là người tiêu thụ một số lượng
nhất định về các sản phẩm kinh tế căn
bản như vải vóc, lương thực v...v... trong một
thời lượng đã được quy ước trước.
Thế rồi từ ý niệm kinh tế nhân, chúng ta
có thể xác định mức độ thịnh vượng
của một nền kinh tế bằng cách cân đo xem
nền kinh tế đó đã thực sự nuôi dưỡng
được bao nhiêu kinh tế nhân trên tổng dân số. Kết
quả của việc cân đo này giúp chúng ta dễ dàng
thiết lập bảng xếp hạng kinh tế thịnh
vượng giữa các quốc gia.
Đánh giá một nền kinh
tế, chúng ta cần "kinh tế nhân" làm thước đo.
Đánh giá một quân đội, chúng ta cũng cần một
thước đo tương tự. Thước đo đó chính là một người
lính bình thường. Người lính đó không phải là
một ông tướng lúc nào cũng sẵn sàng "bỏ quân
chạy lấy người". Người lính đó
không phải là anh binh nhì, suốt ngày ngồi ở
vọng gác thì thầm ca bài "Ky? Vật
Cho Em". Người lính đó mang trong
người đầy đủ "tính lính" mà hầu hết
binh lính trong QĐVNCH đều có. NgườI lính
đó là "người lính tiêu biểu". Bây giờ chúng
ta hãy khảo sát phẩm cách người lính tiêu biểu,
mà bài viết này chỉ gọi tắt là người lính.
II. Quá trình thụ giáo của người lính.
Muốn xác định phẩm
chất của một quân đội, chúng ta không thể không
tìm hiểu cội nguồn giáo dục đã đào
tạo ra hàng ngũ quân nhân cho quân
đội đó. Chế đô. CSVN là
chế độ độc tài, tham ô và bóc lột. Vì
vậy chế độ này cần rất nhiều tay sai để bảo vệ giới thống
trị. Cũng vì vậy giáo dục của CSVN là giáo
dục đào tạo tay sai. Chủ nghĩa
Marx Lenine và luận cứ ca tụng đảng, suy tôn Hồ
Chí Minh, là các công cụ trọng yếu của guồng máy
giáo dục CS. Ngược lại, VNCH có một nền giáo
dục "rất Người". Trên toàn
lãnh thô? VNCH, các môn học như: công dân giáo dục,
sử học, văn chương, triết học v...v... không hề
có chỗ đứng dành cho tư tưởng độc tôn lãnh
tụ hay độc tôn chế độ. Đó là nội dung cốt
lõi của chương trình giáo dục nhân bản mà
người lính của QĐVNCH đã được hấp thụ
trong toàn bộ học trình của tiểu, trung và
đại học. Đó là một sự thực mà
không một người nào đã từng sinh ra và lớn lên
trong xã hội VNCH có thể phủ nhận được.
Một sự thực mà guồng máy thông tin
tuyên truyền của
CSVN không thể xuyên tạc hoặc bóp méo.
Ngay sau khi "xếp bút
nghiên theo việc đao cung", người
lính lại bước vào trường học mới: ngành tâm
lý chiến của QĐVNCH. Tại đây người lính không
hề bị nhồi sọ để trở thành tay sai cho lãnh tụ hay chế độ
chính trị nào. Người lính của QĐVNCH
chỉ được trang bị một loại võ khí tinh
thần duy nhất là lòng yêu nước và tinh thần tôn
trọng kỷ luật quân đội.
Song song
với giáo dục học đường dân sự và giáo dục
tâm lý chiến của quân đội, người lính còn
được hấp thụ một nền giáo dục nhân
bản của toàn bộ xã hội. Người
ta có thể không đồng ý với các chế độ
chính trị tại VNCH về một số sự việc
nào đó nhưng không thể chối cãi rằng VNCH là một
chế độ tôn trọng quyền tự do tư tưởng.
Quyền tự do này được thể hiện đậm nét trên
hai lãnh vực: nghệ thuật trình diễn và
nghệ thuật văn học. Điều này giải thích lý
do tại sao sau nhiều năm bi. CSVN tìm
đủ mọi phương cách để tiêu diệt, những tác
phẩm văn học nghệ thuật xuất phát từ
xã hội VNCH vẫn được lưu truyền càng ngày càng
mạnh mẽ trong dân gian ở cả hai miền
Nhìn chung lại, giáo
dục học đường, giáo dục tâm lý chiến cùng
với giáo dục xã hội là ba nguồn giáo dục
nhân bản mà người lính VNCH đã được tôi luyện
từ thời niên thiếu cho đến hết cuộc
đời binh nghiệp.Trong thực tiễn đời sống, ba
nguồn giáo dục căn bản kia đã hướng dẫn
người lính VNCH sống và chiến đấu đúng với
hướng phát triển tình cảm trong sáng của
một Con Người. Hướng phát triển đó
được triết học cụ thể hóa bằng biểu
đồ hình trôn ốc. Vạn vật vận
động theo hình trôn ốc. Hình trôn ốc triết học có đỉnh
đặt trên mặt đất, đáy hướng lên trời. Hình trôn ốc là hình vẽ diễn
ý rằng mỗi vận động trong vạn vật
đều xuất phát từ một điểm để sau đó phát
triển rộng ra, cao lên, cả về lượng lẫn
phẩm. Khảo sát diễn tiến phát triển
tình cảm của một cá nhân,chúng
ta thấy: ngay sau khi được cha mẹ cho chào đời,
đứa bé quyến luyến cha me. Đó là tình con cái
đối với cha mẹ (đỉnh của hình trôn
ốc) Thế rồi theo đà khôn lớn, đứa bé tìm
tới tình anh chị em ruột thịt, rồi
tình họ hàng gần xa, rồi tình làng xã,
tình quốc gia dân tộc, tình nhân loạị..
Cứ như thế tình cảm của con người sau khi
rời đỉnh hình trôn ốc đã men theo
các vòng xoáy hình trôn ốc để từ thấp lên
cao, từ đơn giản đến phong phú cả về phẩm
lẫn lượng. Không còn nghi ngờ
gì nữa, quá trình giáo dục của người lính
VNCH hoàn toàn phù hợp với nhận định của
triết học về vận động của vạn
vật. Sự phù hợp vừa nói khẳng định
mạnh mẽ rằng: môI trường sống cùng với môi
trường giáo dục tại miền Nam Việt Nam trước
1975 đã tạo điều kiện cho người lính VNCH
trở thành những người thực sự yêu quê hương
đất nước theo đúng quy luật sinh hoạt tình
cảm tự nhiên của Con Người.
III. Bản chất của người lính VNCH.
Do yêu quê hương đất nước,
người lính VNCH đã nhận thức được rằng
cuộc chiến đấu chống quân đội CSVN trước
1975 là cuộc chiến đấu cho tự do dân chủ, cho
chính nghĩa. Sau 1975, nhà khoa học Nguyễn Thanh Giang
đã kêu gọi mọi người Việt
Do yêu quê hương đất nước,
người lính VNCH chấp nhận phục vụ quê hương
với những điều kiện sinh hoạt rất thanh
bạch. Nghèo khổ không than trách. Nguy hiểm không sờn lòng. Người
lính VNCH bao giờ cũng tận tình với nghĩa
vụ bảo quốc, an dân. Người
lính tuyệt vời kia đã được
đền thưởng những gì? Phần
đền thưởng đó lại chính là con đường "vị
quốc vong thân" trong tuyệt đối hiu quạnh.
Con đường ấy đưa đẩy người lính rơi vào một
tình huống cực kỳ quái dị, cực kỳ tê
táị "Đám Ma Tù" là điển hình của tình
huống vừa kể:
"Vài tên cầm súng
bước đi đầu
Tên nữa AK tiếp theo sau
Một xác bó tròn đôi manh chiếu
Hai đầu buộc tréo bốn dây lau
Không kèn, không trống, không đưa tiễn
Chẳng khói, chẳng nhang, chẳng nguyện cầu
Chỉ có bạn tù khiêng lặng lẽ
Vùi nông một khối hận thù sâu !!!"
NgôMinh Hằng--Thi Phẩm
Gọi Đàn
Do yêu quê hương đất nước,
người lính VNCH bao giờ cũng chuyên cần đổ
mồ hôi trên thao trường của các quân trường, bao
giờ cũng thiện chiến và anh dũng đoạt
chiến thắng lừng danh trên mọi hình thái
trận địa. Các chiến thắng Bình Long, An
Lộc, tái chiếm cổ thành Quảng Trị, mùa Hè Đo? Lửa 1972, phản ứng nhanh và chính xác trong
biến cố Tết Mậu Thân v...v... là những thí
dụ điển hình tạo nên "Quân Sư? Vàng" của QĐVNCH.
Do yêu thương quê hương đất
nước, người lính VNCH bao giờ cũng nêu cao gương trách
nhiệm trong mỗi hành động chiến đấu. Hải
Quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà anh dũng trầm mình theo chiến hạm do ông chỉ huy trong
trận hải chiến với Trung Cộng tại
quần đảo Hoàng Sa. Các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn
Hưng, Nguyễn Văn Hai,Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn và vô
số anh hùng quân đội vô danh khác đã ngạo nghễ chọn
cái chết thay vì đầu hàng địch quân vào ngày
30/4/1975.
Do yêu thương quê hương đất
nước, người lính VNCH bao giờ cũng tôn trọng quân
kỷ. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là
người lính chỉ biết tuân hành mọi loại mệnh
lệnh một cách mù quáng. Trong rất nhiều
trường hợp, nghĩa vụ ân
cần chăm sóc thương bệnh binh phải được xem trọng
hơn nghĩa vụ tự giam bó trong quân kỷ. Đó là ý nghĩa của Kinh và Quyềợn
trong tinh thần quân kỷ của người lính VNCH. Đó là ý nghĩa của kỷ luật tự
giác mà người lính VNCH muốn đề cao. Đó còn là
lý do giảI thích tại sao trong QĐVNCH lại có
những hành động phản kháng kiểu Bác Sĩ Quân Y Hà
Thúc Nhơn, Bác Sĩ Quân Y Phạm văn Lương.
IV. Hệ lụy của một quân đội bị
bức tử.
Phẩm
chất người lính tiêu biểu của QĐVNCH như đã
trình bày ở trên chính là phẩm chất của toàn
thê? QĐVNCH. QĐVNCH sinh ra, lớn lên và hùng
mạnh trong môi trường nhân bản. QĐVNCH không hề là,
không thể là quân đội tay sai của
ngoại bang hay bất kỳ chế độ chính trị nào.
QĐVNCH là hình ảnh sinh động của
lương tri và ái quốc. QĐVNCH thiện chiến và
chiến đấu dũng cảm.
Thế nhưng, hành động
phản bội của người bạn đồng minh Hoa
Kỳ đã mặc nhiên trói tay QĐVNCH. Khai thác hoàn cảnh "bị trói tay" đó, CSVN
vội vàng tạo tội ác 30/4/75. Nói rõ ràng hơn,
Hoa Kỳ phản bội cộng với bản chất
gian ác của CSVN là hai lý do chủ yếu dẫn
đến "cái chết" của QĐVNCH. Thông
thường chết có nghĩa là từ giã mọi hệ
lụy. Thế nhưng, ngay sau ngày bị "bức
tử", QĐVNCH đã để lại cho dương gian ba hệ
lụy căn bản như sau:
Hệ lụy 1: Hơn ai
hết, VC nhận biết rất rõ bản chất
nhân bản và ái quốc của QĐVNCH. Vẫn
hơn ai hết VC tự nhận biết bản chất Mafia
của CSVN. Nhà văn Dương Thu Hương gọi Mafia VC là
"Bầy Qua. Đen". Lo sợ
lòng yêu nước và tính dũng cảm của QĐVNCH
được dư luận truyền tụng rộng rãi và lâu
dài. Sự thể này sẽ làm gia tăng vượt bực
lòng căm phẫn của nhân dân VN đốI với
"Bầy Qua. Đen". Vì
vậy trong các thập niên qua, CSVN không ngừng nỗ
lực phá hoại uy danh của QĐVNCH. Ngày
24/9/2002 trên báo The Orange County Register, qua bài viết "Victory
most can celebrate" của ký gia? Gordon Dillow,
đã nhắc lại các sự việc:
·
VC phá hủy có phương pháp nghĩa trang
QĐVNCH
·
VC đẩy hàng ngàn cựu chiến binh
tàn phế của QĐVNCH vào cảnh sống hành khất.
·
VC kiên trì và nỗ lực phá
hoại công cuộc xây dựng tượng đài chiến sĩ
Việt Mỹ tại
Ba sự
việc nêu trên đi kèm với khối sách báo của VC
viết về QĐVNCH là những bằng chứng mạnh
mẽ cho thấy ác ý hủy diệt uy danh QĐVNCH
của VC.
Hệ lụy 2: Sau chiến
tranh Việt
Hệ lụy 3: Đương đầu
với hệ lụy (1) và (2), QĐVNCH hoàn toàn im lặng trong
cõi bức tử. Tình trạng im lặng kia là cơ hội làm cho một số người,
nhất là những người ra đời sau 1975 hiểu
lầm tai hại về thanh danh của QĐVNCH. Đó là hệ lụy thứ ba mà QĐVNCH đang gánh
chịu.
V. Giải trừ oan
khiên.
Những
điều trình bày ở trên đã minh chứng cả ba
hệ lụy là ba oan khiên. Làm thế nào
để giải trừ oan khiên?
Giải trừ một: qúi vị
cựu quân nhân của QĐVNCH hãy hãnh diện về
tư cách cựu quân nhân của mỗi quý vị. Quý
vị gia đình cựu quân nhân và tất cả những
người xuất thân từ xã hội VNCH hãy ghi
khắc trong tim óc của mỗi quý
vị: chúng ta đã có nhiều thập niên sống trong
sự che chở ân cần của QĐVNCH. Một
quân đội đã bảo vệ người dân bằng chính
sinh mệnh của người lính.
Giải trừ hai: người
Việt Nam lớn lên trong chiến tranh hãy giải
thích cho người VN ra đời sau 1975, nhất là những
người VN sinh trưởng tại quốc ngoại để
họ hiểu biết tường tận về lương tri và
lòng ái quốc của QĐVNCH trêạn những liên
hệ thân thiết giữa người dân và QĐVNCH. Hành động giải thích này hoàn toàn không mang ý
nghĩa của một cảm tính. Nó là
sự truyềợn đạt từ thế hệ này qua
thế hệ khác những hiểu biết về vận
động quan trọng của lịch sử. Nó ẩn
chứa trong nó ước mơ rằng: trong tương lai, quốc gia
Việt
Giải trừ ba: đất
nước là tài sản chung của toàn dân. Người dân phải thực sự là chủ nhân
ông tối cao và duy nhất của đất nước. Đó là chân ý nghĩa của công bằng và
lẽ phải. Đó là quy luật sống
tự nhiên của mỗi dân tộc và của toàn nhân
loại. Quy luật sống tự nhiên kia đòi
hỏi những hoạt động kiểu giáo dục,
luật pháp, kinh tế, nhất là quân sự phải là sinh
hoạt nhân bản và công bằng
của xã hội. Bài viết này chỉ
xin nhấn mạnh đến guồng máy quân đội.
Quân đội dân chủ bao
giờ cũng vận động theo
chuẩn mực bởi dân, của dân và vì dân. Nhà cầm quyền dân chủ không bao giờ nuôi
tham vọng biến quân đội trở thành công cụ
bảo vệ ngôi vị cầm quyền. Qua quá trình giáo dục, qua quân sử và
nhất là qua thực tiễn chiến đấu và phục
vụ, QĐVNCH đích thực là một quân đội của
xã hội dân chủ. QĐVNCH và dân
chủ như hình vớI bóng. Chế độ dân chủ
bị chà đạp, QĐVNCH bị lăng
nhục. Vì vậy mọi người
Việt
Như vậy là ba
phương pháp giải trừ đi kèm với ba hệ lụy.
Mỗi
giải trừ tượng trưng bởi một nén nhang.
·
Nén nhang thứ nhất là lời tri ân
của TỔ QUỐC
·
Nén nhang thứ hai là lời vinh danh tinh
thần TRÁCH NHIỆM của QĐVNCH
·
Nén nhang thứ ba là lời nguyền
quyết tâm phục hồi DANH DỰ cho QĐVNCH, một quân
đội thực sự yêu nước ,
thiện chiến, và dũng cảm.
Người viết bài này kính cẩn đặt ba nén nhang kia
dưới chân TƯỢNG ĐÀI CHIẾN SĨ Việt Mỹ ,
Hành động này còn là
sự biểu tỏ lòng tuyệt đối tôn kính và
thương yêu đối với QĐVNCH./.
Đỗ Thái Nhiên
Nguyên thiếu úy ,
trưởng ban Quân số
Tiểu Đoàn 3, Pháo Binh Phòng Không
KBC 4314