Sau Thảm Sát Tết
Mậu Thân 1968 tại Huế.
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––-
MƯỜNG
GIANG
Triết
Gia Ðức M.Heidegger từng ví con người như một Être
Pour La Mort, coi đó như một sinh thể cho tử vong tử
diệt, giống như quan niệm trong Triết Học
Phật Giáo, cho rằng đời là bể khổ trong
cõi thế vốn vô thường,để rồi rốt
cục ai cũng phải chết. Tóm lại sinh tử là
lẽ tất yếu của con người không ai tránh
khỏi,nhưng để yên tâm bước vào cõi vĩnh
hằng, hầu như ai cũng cố gắng giữ trọn
đạo làm người, tốt cho mình ích cho đời và lưu
danh cùng sông núi.
Sau ngày 30-4-1975, cộng sản Hà
Nội huênh hoang tuyên bố tất cả những trò
lừa bịp chính trị đã làm từ năm 1930 là
thời gian mà đảng cộng sản quốc tế chính
thức xâm nhập vào VN, cho tới khi dùng bạo lực
cưởng chiếm được toàn thể quê hương. Ðể chia
chung tội danh thiên cổ đã làm hủy hoại
đất nước Lạc Hồng suốt bao năm qua, Việt
Cộng đểu cáng, đã lôi bọn việt gian VNCH,
từng giúp giặc đâm sau lưng người lính miền nam , vào
chung xuồng, tung hê ca tung bọn ăn chén đá bát này khi viết
lại lịch sử cận đại bằng chủ
thuyết Mác-Lê cộng với những huyền thoại
hoang tưởng,về cái gọi là chiến thắng ba
đại đế quốc Pháp,Nhật,Mỹ.. Trong khi đó, ngàn
thảm kịch vĩ đại,vạn oan khiên tột cùng, núi
xương,sông máu và những cơn giông bảo nước mắt
của triệu triệu nạn nhân cộng sản trong bao
năm qua,bị chế độ độc tài đãng trị cùng
những trí thức không tim óc tiếp tay,chôn dấu vùi
dập một cách tận tuyệt trong đáy mộ thời
gian.
Nhưng lịch sử vốn vô tình và
rất công bằng, nên nhiều trí thức buổi
trước đã ồn ào ca tung Việt Cộng, nay vì
lương tâm và trên hết là sự thật, phải thay ngòi
bút để viết lại lịch sử, lôi ra ánh sáng
những uẩn khúc bi kịch , lột trần những
huyền thoại của đảng cọng sản VN.
1968-2007 bao chục năm qua nay cũng đã đủ để khai
quật nấm mồ lịch sử về cuộc
thảm sát của Việt Cộng , mà nạn nhân đa số
là dân chúng vô tội , trong trận chiến tết Mậu
Thân 1968 tại Huế. Theo nhận xét cuả học
giả Nguyễn Hiến Lê thì muốn viết
lịch sử, phải sống cùng lịch sử ít
nhất một thời gian. Do trên hiện có một số
lớn nạn nhân sống sót sau thảm kịch Mậu
Thân Huế 1968, đã quả quyết thủ
phạm chính cuộc tàn sát dã man lúc đó là những thành
phần trong cái mặt trận Liên Minh Dân Tộc Hòa
Giải do Hà Nội dựng lên tại Huệ vào ngày
mồng ba tết MT(1-2-1968) gồm Lê văn Hảo,Hoàng phủ ngọc Tường,Hoàng phủ
Ngọc Phan,Nguyễn Ðắc Xuân,Nguyễn Ðoá,Ðào
thị Xuân Yến, Hoàng phương Thảo.. Bia đá trăm năm
có thể bị huỷ diệt bởi con người và
thời gian, lịch sử cũng vậy có thể cũng
bị thay đen đổi trắng bởi bọn cầm
quyền và đám bồi bút vô loại nhưng bia miệng thì
không bao giờ bất biến bởi chúng là những tác
phẩm vô hình không chữ nghĩa.
Sau năm 1975, hầu như bọn
phản tặc VNCH đều bị Hà Nội cho ra rìa,
trong số này có anh em nhà Hoàng Phủ. Con người dù có trái
tim cao su hay nhân tạo, đôi lúc trong một thoáng bâng quơ nào đó.
cũng tịnh tâm xúc động về tội ác của
mình,phương chi Hoàng Phủ Ngọc Tường lại là
một trí thức, giáo sư, vương tôn công tư,Ư được sinh ra và
sống trên đầu hàng triệu triệu người lầm
than đen đói VN, nên chắc cũng hàng đêm sám hối về
tội phản quốc và sát nhân của mình đối
với đồng bào vô tội, rồi tủi phận,
rồi bứt rút ,cuối cùng tâm tư đã tuôn hết trong
thi phẩm “ Người hái phù dung “, ăn năn thương tiếc
tuổi hoa niên thơ mộng khi chưa lầm đường theo
giặc giềt hại dân tộc mình :
“Ta tìm lại trong hình hài
hóa bướm
Chút tự do quả thực trên
đời .
rủ sạch hết đam mê hoang
tưởng
nuí thông nhiều ta hãy rong chơi.
1-HUẾ,
CỐ ÐÔ TRONG DÒNG LỊCH SỬ VN :
Tỉnh
Thừa Thiên nằm giữa miền Trung VN, có diện tích
5054km2 và dân số tính đến năm 2000 là 1.045.134 người
với các quận Phong Ðiền,Quảng Ðiền,Hương
Trà,Phú Vang,Hương Thủy,Phú Lộc,A Lưới và Nam Ðồng.
Tỉnh Lỵ là thành phố Huế hiện nay có diện
tích 380km2 với 209.043 người. Theo từ nguyên, Huế là
do Hoá tên nôm của Thuận Hóa đọc trại ra nhưng
đến nay vẫn chưa tìm được xuất xứ, ngoài
tên Huế được đề cập lần đầu, trong bài văn
viết bằng chữ nôm “ Thập giới cô hồn
quốc ngữ văn” của đại đế Lê Thánh Tôn
(1460-1497). Là cố đô của nhà Nguyễn (1802-1945), Huế
muôn đời vẫn đẹp và thơ mộng, mang nhiều
sắc thái tiêu biểu cho dân tộc, nhân chứng của
một chặng đường lịch sử, văn hóa, kiến trúc
VN, nên trong hội nghị lần thứ 17 tại Catagenna
nước Columbia, vào tháng 12-1993, tổ chức UNESCO của
LHQ , đã công nhận Huế là di sản văn hóa của
nhân loại cần bảo tồn
Nghĩ về Huế, dù là địa
phương hay kẻ viễn khách , ai cũng đều ưa thích nhưng
công trình kiến trúc lịch sử cung điện và lăng
tẩm của các tiên vương nhà Nguyễn. Kinh thành Huế do
vua Gia Long cho khởi công xây cất từ năm 1805 mãi
tới năm 1838 đời vua Minh Mạng mới xong. Ðây là
một tòa thành hình vuông,,mỗi cạnh 2.223m,
bề cao 6,60m, chân thành có hào sâu 4m,phía đông nam sát bờ sông
Hương nhìn về phía trước là núi Ngự Bình.
Ngoại thành hướng bắc có pháo đài Mang Cá, ngoài ra
còn có 10 cửa chính với những vọng lầu cao
ngất, dùng để ra vào. Tòa thành được kiến trúc
độc đáo, từ kiểu Vauban của Pháp cho tới
nghệ thuật xây cất Á Ðộng, biểu hiện
nét hoành tráng,lộng lẫy nhưng không kém phần thơ mộng
trang đài từ vách thành,vọng lầu,cửa ngọ môn..
cho tới đền đài cung các được chạm trổ, điêu
khắc hài hòa trong cảnh trí thiên nhiên tuyệt
diệu.
Ngược dòng lịch sử,
từ năm 1366 Huế đã là thủ phủ của Ðàng
Trong, tức là hai Châu Ô, Rí do vua Chế Mân cuả Chiêm Thành,
dâng cho nhà Trần làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân
của Ðại Việt, từ đó trở thành đất
Thuận Hóa. Những gì còn lại của Huế
hôm nay chỉ là một phần công trình của cố
đô trong đống gạch vụn do Việt Cộng và bọn
Việt Gian VNCH tàn phá vào Tết Mậu Thân 1968. Ngoài ra
Huế còn nhiều nét tiêu biểu khác như Chùa Thiên
Mụ,cầu Trường Tiền,Chợ Ðông Ba, với
trường Quốc Học cổ kính nằm cạnh bờ
sông với hàng phượng vỹ nở rộ mỗi độ
hè về, nuí Ngự Bình trước tròn sau méo, sông An
Cựu nắng đục mưa trong,hồ Tĩnh Tâm sen nở
ngút ngàn và Phú Văn Lâu trơ gan cùng tuế nguyệt.
Nói
tới Huế để nhớ về những hình
ảnh nổi bật dịu dàng của người dân
đất thần kinh như mái tóc thề, tà áo dài trắng,
chiếc nón bài thơ, những giọng hò, câu hát.. tất
cả là những nét đẹp làm Huế miên viễn sống
với sông núi thời gian. Ðến Huế để ăn
những món vương giả cũng như bình dân tính hơn 600 món
vừa chay,vừa mặn, vừa cháo,vừa chè kể
cả bánh,mứt và đủ thứ dưa. Ðến Huế đâu
quên món bún bò giò heo cọng to rất cay,rồi
thì bánh khoái nơi cửa Thượng Tứ, chiều
tối đi ăn cơm Âm Phủ, là thứ cơm thập cẩm
đặc biệt với món dưa gan làm món chua rất ngon.
Cũng đâu quên được cơm hến bến Cồn, một
hương vị đặc thù của Huế, giống như nem chua An
Cựu, mè xửng và ốc gạo bến Cồn, mực
Thuận An và sò huyết Lăng Cô. Cuối cùng nhớ
Huế là nhớ đến công trình mở nước vĩ
đại của các Chúa Nguyễn Hoàng,Sải Vương,Hiền
Vương, Phúc Chu, Phúc Trú.. cho ta một giải giang sơn gấm
vốc tới tận mũi Cà Mâu no giàu để con cháu
về sau một đời sung mãn. Những đấng Tiên
Vương c6ng đức và sự nghiệp ngất cao như núi
trên,từ khi VC lên nắm quyền, đã bị chúng
huỷ diệt, để dành công, dành tiếng và dành địa
vị độc tôn yêu nước trong dòng sử Việt.
Từ
năm 1967,Hà Nội đã quyết định tổng tấn
công VNCH vào những ngày hưu chiến Tết Mậu Thân 1968.
Trong số 44 tỉnh,thị tại miền nam bị
đột kích, thì Saì Gòn và Huế là quan
trọng hơn cả. Vì trại Lực lượng đặc
biệt A-Shau rút đi, nên thung lũng A Shau bị bỏ
ngõ và VC đã lợi dụng dịp này để
chuyển một số lớn bộ đội vào tấn công
cố đô với sự dẫn đường chỉ lối
của đám Việt Gian VNCH tại Huế . Trận chiến
mở màn vào sáng mồng hai Tết, nhằm ngày 31-1-1968,
bằng hai cánh quân : Ðoàn 6 gồm các tiểu đoàn đặc công
K1,
Cũng nói thêm là VC đã lợi
dụng những xáo trộn tại Huế trong các năm
1965,1966, xâm nhập hoạt động cũng như móc nối
dụ dổ một số học sinh,sinh viện, quá mê
thầy mà phản bội lại VNCH. Thật ra mặt
trận quan trọng nhất của VC ở Huế là
mặt trận chính trị, vì vậy Hà Nội
bất chấp máu xương của cán binh và thường dân vô
tội, ra lịnh cho đám tàn binh phải cố thủ trong
Ðại Nội dù thực trạng bi thảm tuyệt
vọng bởi các vòng vây của quân lực Hoa Kỳ
và VNCH. Phụ trách công tác tổng khởi nghĩa, để
lập chính quyền cách mạng ở Huế là Hoàng kim Loan và Hoàng Lanh, đã vào nằm vùng
từ lâu trong nhà một giám thị trường Quốc
Học là Nguyễn Ðoá. Ngoài ra còn có Nguyễn trung
Chính,Nguyễn hửu Vân (giáo sư trường Âm nhạc kịch
nghệ), Phan
Ngay từ đầu, nhờ lợi
dụng dịp hưu chiến, nhiều đơn vị cho các quân
nhân về nhà ăn Tết, nên VC đã chiếm được
hầu hết các cơ sở hành chánh, khu Dại
Nội,chợ Ðông Ba,cửa Thượng Tứ,An Hòa,
Chánh Tây.. ngoại trừ BTL.SD1BB tại đồn Mang Cá,cơ
sở MACV,Tiêu khu Thừa Thiên, Ðài phát thanh, Trường
Kiểu Mẫu và cầu tàu Hải Quân vẫn do QLVNCH
kiểm soát. Ngày mồng ba Tết 1-2-1968, một ngày sau đó,
Chiến đoàn Dù với 2 tiểu đoàn 2,7 và chi đoàn 2/7 từ
phía bắc vào giải vây Huế. Hai đại đội TQLC cùng
4 chiến xa M48 trong Chiến doàn X-Ray đóng tại Phú Bài
cũng về Huế tăng cường phòng thủ MACV.
Chiều ngày mồng 4 Tết, TÐ 9 Dù được trực
thăng vận vào chiến trường, từ đây cho tới ngày
12-2-1968 , cuộc chiến trở nên khốc liệt
bạo tàn với sự tổn thất nhân mạng rất
cao của cả hai phía. Cùng ngày đó, Chiến đoàn A Thủy
quân lục chiến VN gồm các tiểu đoàn 3,4,5 thay
thế chiến đoàn Dù, tiếp tục giải tỏa áp
lực VC tại sân bay Tây Lộc và Ðại Nội. Ngày
19/2 TQLC mở chiến dịch Sóng Thần 739/68. Ngày 22/2 hai
tiểu đoàn 21 và 39 BDQ được tăng cường tại Huế và
VC cũng bắt đầu tháo chạy. Ngày 25/2/1968 Biệt
động quân chiếm lại Khu Gia Hội, chấm dứt chiến
cuộc tại Huế với đổ nát, điêu tàn, nhà cửa,
cầu cống, cây cối, đường xá gần như tử
địa với xác người nằm la liệt đã
sình thối. Tất cả chỉ còn là sự tàn
nhẩn, thê lương, từ bàn tay đẳm máu của VC và bọn
Việt gian mang đủ loại mặt nạ gây nên. Tóm
lại không còn lời nào để đủ viết về
Huế đang quằn quại trong lửa máu, giống như
những nhịp cầu Tràng Tiền trên Hương Giang đớn
đau gãy xập. Hởi ôi sắt thép, gổ đá còn
biết rơi nước mắt với Huế thê lương, trong khi đó
lại có không ít người thản nhiên đứng vổ tay
cười.
2-THẢM
SÁT MẬU THÂN TẠI HUẾ :
Những hành động dã man nhắm vào dân
lành tại Huế , làm nhớ tới Nga Sô tàn sát hơn 5000 hàng
binh Ba Lan phần lớn là sĩ quan vào tháng 9-1939 tại
rừng Katyn ở phía tây thành phố Smolensk, chứng
tỏ bản chất hiếu sát vốn tiềm tàng trong
máu óc của cọng sản, dù chúng là ai chăng nửa,
tất cả đều giống nhau vì cùng chung một
tổ,một lò.Trong trận chiến Tết
Mậu Thân 1968, Huế là thành phố bị thiệt
hại nặng nhất về nhân mạng cũng như
vật chất vì bị VC chiếm đóng lâu dài nhất.
Riêng người Huế sỡ dĩ bị tàn sát dã man,
theo một số nhân chứng , do VC được chỉ
điểm bởi một số nằm vùng địa phương
vì thù oán nhau mà trả thù, rồi lại được
tự do đi lại trong thành phố nên tự do hành động,
nhất là trong khoảng từ mồng hai tới mồng
bốn, tha hồ đi từng nhà,lôi từng người ra
bắn giết theo ý muốn, đúng với kỹ
thuật bắt và thủ tiêu theo KGB và Maoit .
Ðọc lại những trang
sử của VNCH từ 1963 tới tháng 4-1975, ngày nay cả
thế giới đều công nhận là VC thua VNCH trên mặt
trận quân sự nhưng ngược lại chiếm được
miền nam bằng thủ đoạn chính trị, qua phương cách
xách động quần chúng, đồng thời vin vào đó mà nặn
ra những mặt trận MA như Giải Phóng Miền Nam năm
1960, rồi sau đó là Hội Ðồng Nhân Dân Cứu
Quốc do phần lớn cọng sản nằm vùng
lãnh đạo như Lê Khắc Quyến, Lê Tuyên,Tôn Thất
Hanh, Lê văn Hảo,Hoàng Phủ Ngọc Tường,Hoàng Phủ
Ngọc Phan,Nguyễn đắc Xuân, Tôn Thất Dương Tiềm..
Trong số các hung thần can dự tới
bửa tiệc máu tại Huế, dư luận trước sau
vẫn nhắm vào Lê văn
Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường,Ngọc Phan và
Nguyễn đắc Xuân. Năm 1966 khi còn là một
sinh viên, Nguyễn đắc Xuân từng tổ chức đoàn “Phật
Tử Quyết Tử” quậy nát Huế, sau đó trốn theo
VC và trở lại cố đô vào Tết Mậu Thân, phụ
trách đội “Công tác thanh niên” và khuyến dụ các quân nhân
VNCH bị kẹt,để lập cái gọi là đoàn nghĩa
binh.. Trái với dự đoán của cộng sản, dân chúng
Huế không hưởng ứng tổng khởi nghĩa,trái
lại bỏ trốn sang các khu vực có QLVNCH như Mang
Cá,Trường Kiểu Mẫu, Tiểu Khu Thừa Thiên,Bến
Tàu,Phú Bài.. Bắt đầu ngày mồng ba Tết, QLVNCH và Hoa
Kỳ phản công, ngày 7-2-1968 VC giựt xập cầu
Trường Tiền. Ngày 15-2 Quân Ủy cọng sản tại
Hà Nội ban lệnh cho VC tử thủ tại Huế,
nhưng tình hình càng lúc càng bi đát cho VC nên Lê Minh
muốn rút quân. Ngày 23-2 VC bị đẩy ra khỏi Huế,
lá cờ VNCH lại tung bay trên kỳ đài ở Phú văn Lâu.
Nói chung cọng
sản tàn sát đồng bào Huế nhiều nhất là tại
khu dân cư Gia Hội vì vùng này bị VC chiếm lâu
nhất từ ngày mùng 2 Tềt đến 22-2-1968 mới
được Biệt Ðộng Quân giải tỏa, bởi
vậy giặc và Việt gian mới có cơ hội giết
nhiều đồng bào vô tội. Cho đến nay không ai
biết chính xác số người bị VC tàn sát tại
Huế là bao nhiêu nhưng căn cứ vào thống kê số hài
cốt tìm được trong một số hầm chôn
tập thể sau khi giặc bị đánh duổi khỏi
thành phố, tại các địa điểm Trường Gia Hội,
Chùa Theravada, Bải Dâu,Cồn Hến, Tiểu Chủng
viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự
Ðức,Ðồng Khánh, Cầu An Ninh, Cửa Ðông Ba,
Trường An Ninh Hạ,Trường Vân Chí, Chợ Thông,Chùa
Từ Quang,Lăng Gia Long, Ðồng Di,Vịnh Thái,Phù Lương , Phú
Xuân,Thượng Hòa,Thủy Thanh,Vĩnh Hưng và Khe Ðá
Mài.. tổng cộng đếm được 2326 xác.
Về
câu hỏi tại sao VC tàn sát thường dân vô tội, đến
nay Hà Nội vẫn tránh né, còn Võ nguyên Giáp thì đểu
giả hơn khi bị các ký giả ngoại quốc
phỏng vấn sau Tết Mậu Thân, đã trả
lời là Bắc Việt không hề biết vì đó là
chuyện của MTGPMN và VNCH. Theo các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước, thì động cơ cọng sản tàn
sát dân chúng tại Huế, ngoài một lý do nhỏ là
sự trả thù do hờn oán trước đây giữa cá nhân và
cá nhân, thì tàn sát theo kế hoạch phá huỷ và làm
rối loạn bộ máy cầm quyền của VNCH,
điều này đã được ghi lại trong một tài
liệu cuả cán bộ VC , bị SD1 Không kỵ Hoa Kỳ
bát được tại tỉnh Thừa Thiên ngày 12-6-1968 .Tàn sát
để khủng bố và cảnh cáo đe dọa dân chúng
đừng tòng quân chống cộng. Tàn sát tín đồ Thiên
Chúa Giáo để chia rẽ sự đoàn kết tại miền
nam, tạo sự nghi kỵ giữa các tôn giáo cho tới
ngày VC cưởng chiếm dược miền Nam mới chấm
dứt vì VC độc tài đảng trị, cấm biểu
tình xuống đường, nên bốn bên bốn phía
bình đẳng chịu sống chung hòa bình.
Từ đó mới không thấy tự thiêu, tuyệt thức
và ra báo chống đối, bêu xấu,hạ nhục chính
quyền như cơm bửa thời VNCH. Tàn sát dân chúng để gây
tiếng vang với thế giới.
Trong
dòng Việt Sử, từ thời Vua Hùng dựng
nước cho tới ngày nay,chỉ thấy có ghi lại
một cuộc tàn sát tập thể tôn thất nhà Hậu
Lý do Trần Thủ Ðộ gây ra vào năm 1232 bằng
thủ đoạn cho giựt xập nhà trai đàn , giết
chết chừng vài chục người trong tôn thất nhà
Lý nhưng hành vi trên dù đã thuộc vào quá khứ,
đến nay vẫn bị đời nguyền rủa, dù mặt
thật của lịch sử, nếu không có Trần
Thủ Ðộ sẽ không có Trần Thái Tông quyết
chiến chống quân Mông Cổ xâm lăng Ðại Việt
lần thứ 1 với câu nói vang danh thiên cổ :” đầu
Ðộ chưa rơi, không thể đầu hàng giặc Mông”.
Cũng qua dòng Việt sử, ta thấy kinh thành Thăng
Long từ lúc được Vua Lý Thái Tổ chọn làm kinh đô
vào năm 1010 cho tới thời Pháp thuộc vào năm 1884 đã
10 lần bị giặc Tàu, giặc Chiêm cả Pháp tàn phá
chiếm đóng va kinh thành Huế thất thủ năm Ất
Dậu 1885 nhưng tuyệt nhiên không thấy nói tới quân
ngoại quốc tàn sát người Ðại Việt khi làm
chủ thành. Tóm lại dù bị kết tội như thế
nào chăng nữa, người Tàu,Chiêm,Pháp cũng còn nhân
đạo hơn VC trăm ngàn lần, về cung cách đối xử
với thường dân trong chiến tranh.
Ðem các biến cố năm1885
tại Huế và 1946 ở Hà Nội để so sánh với
Mậu Thân 1968 tại Huế ,bổng thấy lạnh
mình về những lời chạy tội của tên
Ðại Tá VC Bùi Tín, khi trả lời về cuộc tàn
sát của VC đối với thường dân tại Huế năm
1968, theo nhận xét của Nguyễn đức Phương trong
Chiến Tranh toàn tập, thi Bùi Tín không biết gì
về qui ước Geneve dành cho tù binh chiến tranh, hoặc biết
nhưng giả bộ ngây thơ không biết để có lý do bào
chửa sự tàn ác dã mang của cán binh VC và biết
thêm về quan niệm của Hà Nội, luôn qui chụp
tất cả những ai chống đối họ, đều
bị gán là tù binh với kết quả như Bùi Tín nói là
phải được chết để giữ gìn bí mật
quốc phòng.
Theo Chính Ðạo trong “Mậu Thân
1968 thắng hay bại” thì sau khi các mật khu bất
khả xâm phạm của VC tại Tam Giác Sắt,các
chiến khu C-D bị quân Ðội Ðồng Minh vá QLVNCH
phá tan nát, khiến Nguyễn Chí Thanh trùm cộng sản Hà
Nội, chỉ huy Cục R đã phải thay đổi
chiến lược tại Miền Nam vào tháng 5/1967, là đưa
chiến tranh vào thành phố để cứu nguy cho cán binh và
cơ sở VC tại nông thôn đang sắp bị tiêu diệt.
Nhưng rồi Nguyễn Chí Thanh đột ngột chết vào mùa
thu năm đóvà cái chết của Y tới nay vẫn chưa được
đưa ra ánh sáng vì có quá nhiều nguồn tin và các cách
chết khác nhau từ VNCH,Bùi Tín,Hoa Kỳ và Xuân Vũ ,
một cán binh VC hồi chánh từng sống hơn 2000 ngày
tại Củ Chi và rất thân cận cũng như am tường
chuyện thâm cung bí sử cuả vua chuá VC tại Cục R.
Do trên Lê Duẩn ra lệnh cho Võ Nguyên Giáp,Văn Tiến
Dũng,Lê Ðức Thọ, Phạm văn Ðồng.. cải
tiến kế hoạch đột kích của Nguyễn Chí
Thanh, thành tổng công kích và thêm vào đó là lập một
mặt trận ngoại giao chính trị.
Cũng theo Chánh Dạo , thì
việc Trần Ðộ năm 1968 là Phó chính uỷ B2, phụ
trách tình báo, có địa vị tại cucỳ R rất
khiêm tốn so với Phạm Hùng,Trần nam Trung,Trần
văn Trà,Lê trọng Tấn.. nên dù là một trong những
cấp chỉ huy trong mặt trận tại Sài Gòn vào
Tết Mậu Thân 1968, cũng chưa chắc được Quân
Ủy Hà Nội thông báo các kế hoạch bí mật trong
Ðảng và lời tuyên bố không có cơ sở, với
ký giả Stanley Karnov năm 1981 rằng phản ứng
của Mỹ trong cuộc chiến này, chỉ là sự may
mắn không có dự liệu trước. Chỉ
vì dã tâm xâm lăng cho được VNCH, mà Hà Nội trong
cuộc chiến Mậu Thân đã giết hại hàng
chục ngàn người trên toàn quốc và chỉ riêng tại
Huế lại chôn sống đồng bào, vậy mà tới nay
từ Hà Nội cho tới bọn cộng sản tại
Huế vân coi như không hề xãy ra một chuyện
gì và cũng chẳng có ai nhận trách nhiệu, ngoài
việc công khai đổ hết nợ máu cho Lê văn Hảo,Hoàng
phủ ngọc Tường,Hoàng phủ ngọc Phan, Nguyễn
Ðoá,Nguyễn đắc Xuân.
Năm 1998, ngày giổ chung của
gần 100.000 người VN chết trong cuộc chiến
cũng là ngàyVC ăn mừng chiến thắng Mậu Thân, ca
tụng bài thơ của Hồ viết chúc Tết đồng
thời cũng là mật hiệu cho cán binh tại miền
nam mở cuộc tiệc máu. Chính Bộ
Trưởng quốc phòng Bắc Việt lúc đó là Võ
nguyên Giáp soạn thảo kế hoạch,Phạm Hùng Ủy
viên Bộ Chính trị, chỉ đạo Trung Ương Cục Miên
Nam chỉ huy trận tổng tấn công, vậy mà cũng
chính Võ nguyên Giáp đã trân tráo dám nói láo với nhà báo
Tây Phương vào năm 1969 là hoàn toàn vô can, vô trách nhiệm.
Ðây là một tội danh thiên cổ của VC đã gây
ra trong dòng sử Việt, được các sử gia xếp
chung với bốn cuộc tàn sát lớn trên thế
giới cận đại như vụ quân Nhật tàn sát 300.000
người Hoa tại thành Nam Kinh ngày 13-12-1937, việc
Ðức quốc xã giết hàng triệu dân Do Thái
trong đệ nhị thế chiến 1939-1945, kế đến là
cộng sản Liên Xô tàn sát 15.000 tù binh Ba Lan năm 1940 và Khmer
đỏ tàn sát hơn 2 triệu dân lành sau năm 1975 khi chiếm
được Cao Mên.
Theo
Nguyễn Lý Tưởng, thì những hành động
dã man của Việt Cộng, tại Thành Nội và Gia
Hội,do cái gọi là Toà Án Nhân Dân được quyết định
bởi các chóp bu trong Liên Minh Dân Chủ Hòa Bình, là
Lê văn Hảo,Thích Ðôn Hậu, bà Nguyễn Ðình Chi..
nhưng chủ chốt và dã man tàn bạo vẫn là
bọn theo phong trào tranh đấu chống VNCH năm 1966, sau đó
theo VC và quay về Huế như Hoàng phủ ngọc Tường
(giáo sư), Hoàng phủ ngọc Phan(sinh viên y khoa),Nguyễn
đắc Xuân (sinh viên sư phạm),Trần quan Long (sinh viên sư
phạm),Phan Chính Dinh hay Phan Duy Nhân(sinh viên).. dẫn an ninh VC
như Tống hoàng Nhân,Bảy Khiêm.. đi lùng bắt bạn bè,
thân nhân,các thành phần quân,công, cán,chính VNCH cũng như các
đảng phái bị kẹt lại tại Huế.
Hiện nay tất cả những
bí mật của lịch sử gần như được khai
quật trong đó có cuộc thảm sát thường dân tại
Huế năm Mậu Thân. Những tội nhân thiên cổ ngoài
bản án của lương tâm, đạo đức và sự nguyền
rủa của đời, nên không ngớt tìm đủ
mọi cách để biện minh về tội lỗi của
mình. Năm 1988,trên báo Sông Hương và được dịch đăng
lại trên tờ Newswwek ở Hoa Kỳ, Ðại Tá
Bắc Việt Lê Minh, nguyên chỉ huy mặt trận
Thừa Thiên-Huế, xác nhận và chịu trách nhiệm
về việc tàn sát dân chúng Huế nhưng vẫn đưa ra
lý do là lúc đó VC đang ở vào giờ thứ 25, nên không
kiểm soát được . Còn thủ
phạm chính Hoàng phủ ngọc Tường thì đổ
thừa cho cục bộ,địa phương chứ không phải
tại đảng, vẫn giữ nguyên ý là miền
nam mất vì cách mạng chứ không bị cộng
sản quốc tế xâm lăng, và trên hết vào ngày 12-7-1997
Tường công khai chối tội là không tham dự mặt
trận Huế, vì lúc đó y đang trốn tại địa
đạo trong quận Hương Trà,tỉnh Thừa Thiên. Còn
nhân vật bị bia miệng nhắc tới là Hoàng phủ
Ngọc Phan.. mà người Huế tưởng lầm ? Lê văn
Hảo hiện đang sống tại Pháp cũng chối
tội. Sau rốt chỉ có Hoàng phủ Ngọc Phan và
Nguyễn đắc Xuân vì lúc đó gần như là công an,cai
tù,chánh án và đao phủ thủ.. nên người Huế ai cũng
nhận được,vì vậy phải chịu tai tiếng
nhơ nhớp muôn đời.
Ngày
nay ai cũng biết Tết Mậu Thân VC thua lớn và
Tổng thống Hoa Kỳ là Johnson phải trực tiếp
chịu trách nhiệm trước lịch sử vì
đã cố tình tạo nên một lỗi lầm
nghiêm trọng về đạo đức., gây tử vong cho
nhiều người có thể tránh khỏi nếu được báo
trước sự thật.
3-HOÀNG
PHỦ NGỌC TƯỜNG,KẺ HÁI PHÙ DU :
Phù Dung là một thứ hoa chỉ
sống được có một ngày, nở vào buổi sáng và tàn
lụn theo bóng đêm tàn, thứ hoa phù du mây nổi mà thi nhân
thường mượn để ví những đệ tử của
nàng tiên nâu. Hoa
phù dung rất đẹp, cây cao chừng hai thước, lá to, hoa
phù dung thường có ba màu đỏ,trắng và vàng. Hoa phù dung
còn được ví với sắc đẹp của người
đàn bà, như trong thơ của Bạch Cư Dị :” Phù dung như
diện, liễu như mi “, nghĩa là mặt tươi như hoa phù dung,
mày lá liễu. Trong Kiều có câu “ Bạc tình nổi
tiếng lầu xanh,một tay chôn biết mấy cành phù
dung..” nhưng thắm thía nhất vẫn là hai câu thơ trong Quan Âm
Thị Kính :” Phù Dung nỡ để lìa cành, giếng sâu
nỡ để rơi bình từ đây “.Theo triết học,
thì kiếp phù du chỉ là một cuộc phong trần
không không có có, không nở không tàn,lúc có lúc không, tất
cả chỉ là phù du trong cỏi vô thường. Thơ văn là
biểu tượng của con người, Tố Hửu bàn
chất chạy theo thời để mưu cầu quan chức,
địa vị nên thơ Tố Hửu luôn mang bản chất
của một con người đội trên đạp dưới. Cao Bá
Quát, Nguyễn công Trứ, Văn Thiên Tường,Nguyễn Bá Trác
kẻ sĩ gươm đàn nửa gánh giang sơn một bầu.. cho
nên thơ văn luôn thoát tục, ẩn hiện cái hào khí cao
ngất của đấng trượng phu.Với Hoàng phủ
ngọc Tường,chỉ riêng cái tựa của thi tập và
ý thơ trong bài “ Ðùa chơi” nhiều lúc người đọc,
nếu không biết trước Y là tên phản tặc, gian ác,
đem một phần đời và cả danh gía của dòng
họ tôn quý vùi dưới bùn nhơ, khi nhẩn tâm theo
lệnh VC tàn sát dân chúng vô tội., rất dễ bị
lầm lạc, vì qua ý thơ, cứ ngở đây là
một cao tăng, một thánh nhân hay ít ra cũng thuộc
kẽ sĩ ngẩnmặt nhìn trời :
“ Ta tìm lại trong hình hài
hóa bướm,
Chút tự do quả thực trên
đời
Rũ sạch hết đam mê hoang
tưởng
Núi thông nhiều, ta hãy rong chơi “
Ðọc
đoạn thơ ngắn trên mới thấy lạ, và càng ngớ
ngẩn với câu chút tự do quả thực trên đời”
như vậy cả một quảng đời từ năm 1963 cho
tới 1975, vì ai mà phải bỏ đời, dấn thân
vào con đường man rợ, nón tai bèo , đôi dép râu, AK, mã
tấu và cái lưởi không xương lắc léo làm chuyện
đổi trắng thay đen ? Ðã làm thì phải
nhận, phương chi hành động của mình nay đã
thành một tội danh thiên cổ, ngàn đời muơn kiếp,
bia miệng bia đời không tha, thì không thể “ Rũ
sạch hết đam mê hoang tưởng “ để thành tiên rong chơi
trên núi thông. Hởi ơi chỉ vì chút phù du cuộc
đời, mà phải mang mặt nạ phá đời, chẳng
riêng đã hại đời mình, mà còn làm cho
thế tộc ô danh, nước non tan tác, dân chúng cả
nước lầm than khổ lụy “ đừng hỏi nửa
em ơi, thầy lên đường đánh Mỹ” trong lúc đó bên cạnh
thầy thì đầy rẫy Nga, Tàu,Bắc Hàn,Cu Ba,Ðông
Ðức. Có cái ngang trái vô thường, là nếu như Lê
Khắc Quyến, Lê văn Hảo, Lê Tuyên, Nguyễn đắc Xuân
và anh em nhà Hoàng Phủ.. vì thuộc loại dân chúng
bị chế độ VNCH đè ép phải sống cùng khổ
mất tự do, nên mới theo VC để may ra xoay bạch
ốc thành lâu đài, ném thanh y tìm gấm vóc, cái này ai
nấy đều ở trên mức thượng thừa,vậy
thì làm giặc để làm gì đến giờ này
một chút tự do cho mình, cho đời vẫn chưa có.
Năm 1971, khi mà chiến trường
miền nam bước vào giai đoạn tàn khốc, Hà Nội
cần máu xương thanh niên nam nử để đốt rụi
Trường Sơn, mở lối vào Nam, nên cũng cần tung hê
một số phản tặc của VNCH đã chạy
theo , vì vậy mới phong cho Hoàng phủ Ngọc
Tường lên chức nhà thơ VC và cho đài phát thanh phổ
biến bài thơ “ Tôi đi trên những con đường rừng
củ “ cũng nhờ vậy mà Tường đã lọt vào
mắt xanh của Lâm Thị Mỹ Dạ, cùng khóa với
Dương Thu Hương tại trường viết van Nguyễn Du ở
Hà Nội năm 1972.:
“ Hai mươi năm dài trên trán mẹ
Những con đường rừng vẽ
nét ưu tư “
Thơ
hay, đáng tiêu biểu cho một con người , đúng ra là một
cái xác biết đi, sống như đã chết vì :” hai
mươi năm biết ai còn nhớ ? nhưng từ đó cây hoang
rừng già “ Ðó mới là nổi khổ của một
đời người, người ta quên thì mình tiếc,
người ta nhớ mình sợ, đăm chiêu, nghẹn
nghẹn sống làm sao nổi đây hởi trời ?
Quả thật suốt phần đời
còn lại, Hoàng Phủ ngọc Tường, không bao
giờ thoát nổi ám ảnh của tội lỗi một
thời gây ra, đâu cũng là một địa chỉ
buồn, nời nào cũng gặp cố nhân, những
người mà Hoàng phủ ngọc Tường trong một phút phù
du, đưa họ về bên kia thế giới :
Những chiền bến Ngự dâng
mưa
Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi
Tôi ra mở cửa đón người
Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài
hành lang .”
Tất
cà giờ chỉ còn lại bóng tối, thời gian
để hoa phù dung tàn lụn, tất cả cũng đã
cạn tàu khi cái sân si biến vụt vào cõi không không.
Hoàng phủ ngọc Tường luôn nuôi ảo tưởng hảo
huyền là lưu lại với đời tuổi tên, nhưng
tiếc thay lầm đường lạc nẽo, theo kẻ ác làm
ác, rốt cục một mình thui thủi đi về trong
cỏi phu du, sám hối cho tới chết vẫn chưa yên
hồn .
Việt
Cộng đểu cáng như vậy mà giờ này vẫn còn
nhiều tên Việt Gian tự nguyện làm tay sai cho chúng
thì quả là trời không có mắt -/-
Xóm Cồn
tháng 12-2007
MG