Đọc
hồi kư
TRẢ TA
SÔNG NÚI
Phạm
Văn Liễu
( Trích đăng nguyệt san Ong Việt
số 53 )
LƯỚI
TRỜI LỒNG LỘNG
Lưới
người, kẻ gian tà có thể thoát,
Nhưng
lưới Trời, không thể nào thoát nổi.
HOÀNG CƠ
MINH CHẾT MẤT XÁC.
Từ sau ngày 29 tháng 12 năm 1984,
Hoàng Cơ Minh, với tư cách Chủ tịch Mặt
Trận, (không do ai bầu hoặc đề cử )
đồng thời cũng là Chủ tịch Hội
Đồng Kháng Chiến Toàn Quốc (chưa bao giờ
được thành lập) kư quyết định
số 037/ HĐKCTQ giải nhiệm
ông Trần Trung Sơn (Phạm văn Liễu), Tổng
Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoại, Minh
mất hết sự tin yêu của mọi giới
đồng bào, lẩn trốn chiến hữu, lẩn trốn
đồng bào, lẩn trốn dư luận, một
thời đă kỳ vọng ông như một lănh tụ sáng giá tại
hải ngoại.
Minh thường sống tại
Do sự bầy
mưu, hiến kế của cặp bài trùng Nguyễn Xuân
Nghĩa và Hoàng Cơ Định, Minh trở lại Thái Lan,
cố làm sao tạo ra một tiếng vang, chứng tỏ
cho dư luận thấy là Minh vẫn chỉ huy chiến
đấu ở quốc nội. Phải tạo
được tiếng vang dội ngược về
hải ngoại th́ Hoàng Cơ Định mới có lư do
tiếp tục moi hầu bao của chiến hữu và
đồng bào.
V́ áp lực
của Ṭa đại sứ Cộng Sản VN ở
Vọng các (Bangkok), Bộ Tổng Tư Lệnh quân
đội Thái Lan có ư định giải tán căn cứ
của ông Minh, tại tỉnh Ubon Ratchathani, có khoảng
từ 40 tới 50 người, vũ khí phần lớn là
súng trường M1, một ít lựu đạn, do
Tướng hồi hưu Sutsai cung cấp với giá
cắt cổ.
Ông
Minh chạy đôn chạy đáo t́m mọi cách liên lạc,
bắt mối với các Tướng lănh Thái, đặc
biệt là Tướng phụ trách biên thùy miền
Tháng 8 năm 1987,
ông Minh cho lệnh chuyển trại lên miền Bắc,
lộ tŕnh bám sát biên giới Thái Lào. Thời gian này, không c̣n
những cấp chỉ huy nhiều kinh nghiệm chiến
trường rừng núi, như đại tá Dương
văn Tư, trung tá Lê Hồng. Chung quanh ông Minh toàn những thuộc hạ
thân tín chưa bao giờ tham dự chiến trận trong
rừng như Nguyễn
trọng Hùng, sĩ quan pḥng 7, Trần thiện Khải,
sĩ quan hải quân, Vơ Hoàng, một thanh niên hăng say,
nhiệt huyết, nhưng chỉ biết cầm bút,
chưa lần nào cầm súng.
Ngô Chí Dũng, con chim đầu đàn của
tổ chức Người Việt Tư Do cũng không c̣n
nữa.
Hoàng Cơ Minh có tật thích được tôn sùng
cá nhân và có tính hiếu sát, đă từng hạ lệnh
xử tử 18 kháng chiến quân Mặt Trận tại khu
chiến.
Trong chuyến
dời căn cứ lên miền Bắc, đích thân ông
cựu phó đề đốc hải quân chỉ huy
cuộc hành quân chuyển trại, xuyên qua rừng núi biên
thùy Thái Lào. Không biết ông Minh có lưu tâm đề pḥng
trong số kháng chiến quân đi theo ông
có nhiều người bất măn v́ ông đă hạ sát anh
em, bằng hữu của họ. Manh nha trả thù cho anh em,
bằng hữu và lo ngại cho chính bản thân họ,
mấy người này trốn khỏi hàng ngũ,
đi báo cho quân Pathet Lào trấn đóng trong vùng. Quân Pathet
Lào tuy không tinh nhuệ, nhưng được trang bị
vũ khí, đạn dược đầy đủ, quen
thuộc vùng chúng trấn đóng, bao vây toán quân do ông cựu
Tư lệnh lực
lượng thủy bộ chỉ huy.
Cuộc nổ súng
giữa hai bên xẩy ra, vang dội núi rừng. Kháng chiến quân lần lượt ngă gục, ông
Minh và mấy người thân cận cũng không thoát
khỏi cái chết. Một số kháng chiến quân
bị địch bắt hay đầu hàng. Tất
cả người chết về phía Mặt Trận
được chôn vùi sơ sài ngay tại chỗ. Quân
Pathet Lào không hay biết là trong số người chết
có chủ tịch Hoàng Cơ Minh, lănh tụ kháng chiến
Việt
Tháng 10, 1987, đài
phát thanh và báo chí Lào loan tải bản tin chiến sự là đă
tiêu diệt lực
lượng Hoàng Cơ Minh. Tháng 12, 1987, báo Nhân Dân của
đảng CSVN và báo Quân Đội Nhân Dân chính thức loan
tin về phiên ṭa xử các kháng chiến quân bị bắt
trong cuộc chạm súng tại Nam Lào và loan tải chi
tiết về cái chết của chủ tịch Mặt
Trận Hoàng Cơ Minh kèm theo h́nh ảnh.
Hai tờ báo,
một của đảng, một của Quân đội
Nhân dân đă ra liền 3 số báo, tường thuật chi
tiết, rơ ràng trận đánh ở Nam Lào, cái chết
của Hoàng Cơ Minh.
Tuy
nhiên, ở hải ngoại, bọn đầu lĩnh
kế thừa Mặt Trận nhất quyết không nh́n
nhận là Hoàng Cơ Minh đă chết.
Dư
luận ở hải ngoại rất nôn nao khi
được tin Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh và
nhiều chiến sĩ thân thương đă hy sinh trên
chiến trường Lào cho chính nghĩa. Tất
cả đều mong đợi Tổng vụ hải
ngoại chính thức công bố tin này, sẽ làm lễ truy
điệu và vinh danh những người con yêu đă
nằm xuống cho công cuộc giải phóng Việt
- “Chủ tịch Hoàng Cơ Minh vẫn c̣n sống
và vẫn lănh đạo công cuộc kháng chiến tại
quốc nội.”.
Thậm chí, trong những số báo Kháng Chiến ra
hàng tháng, ông vụ trưởng vụ Tuyên Vận vẫn
c̣n viết và cho đăng những tin tức tưởng
tượng như là lực lượng kháng chiến
dưới quyền lănh đạo của chiến hữu
Hoàng Cơ Minh đă chiếm hết xă này tới quận
nọ, nơi nào cũng đặt ủy ban kháng quản,
sau khi tiêu diệt hết các ủy ban xă, ủy ban quận
của Cộng Sản.
Đồng bào
hải ngoại đọc những loại tin “tức
ḿnh” này, rất khâm phục cặp bài trùng Hoàng Cơ
Định - Nguyễn Xuân Nghĩa với hai bộ óc có trí
tưởng tượng tuyệt vời của một
tiến sĩ hóa học tốt nghiệp tại Pháp và
một chuyên viên kinh tài tốt
nghiệp trường Cao Đẳng Thương Mại
tại Paris.
Không xác nhận hay phủ nhận mọi tin
tức đưa ra từ kẻ thù để bảo
mật thực lực. Đây là bài học 4 không bắt
đoàn viên học thuộc ḷng:
- “Không nghe, không thấy, không biết
và không nói “cóp nhặt của cộng sản.
Dư luận
thương cho ông Minh đă anh dũng hy sinh trên chiến
trường Nam Lào, dư luận sẵn sàng bỏ qua
những lỗi lầm của ông Minh đă không có tín
nghĩa, đă gian tham tiền bạc, đă lừa dối
chiến hữu, đă lường gạt đồng bào.
Trường
hợp, chính những người anh em ruột thịt và
những tay chân thủ túc của ông Minh ở hải
ngoại lên tiếng về cái chết thảm khốc
của ông Minh, đồng bào và nhất là các chiến
sĩ hải quân sẽ làm lễ truy điệu, vinh danh cựu phó
đề đốc và các kháng chiến quân đă vị
quốc vong thân.
Mặt Trận và
gia đ́nh gịng họ Hoàng Cơ sẽ lấy lại
được uy tín một dạo đă lên tới
tuyệt đỉnh và đă tắt lịm v́ những tai tiếng xấu xa.
Trường
hợp ông Minh thật quả chưa chết mà báo chí
đảng và quân đội nhân dân bịa ra cái chết
của ông Minh đăng liên tiếp trong 3 ngày,
trường hợp không ra hải ngoại như đi
chợ thời trước đây, ông Minh t́m cách lên
tiếng với những phương tiện truyền
thông hiện đại (như kiểu thâu tiếng và h́nh
vào băng video của tên trùm khủng bố OSAMA BIN LADEN xứ A Phú Hăn bây
giờ) , th́ đảng và nhà nước cộng sản
Việt Nam chỉ c̣n cách bôi tro trát trấu lên mặt,
đâu c̣n dám ṭi mặt mo ra với thế giới bên ngoài. Nhưng ông Minh không làm được v́ ông đă
thực sự chết ở Nam Lào.
Dư luận thương
cho ông Minh, nhưng thấy thái độ úp mở, dối
trá, bất nhân của những đầu lĩnh Mặt
Trận, dư luận phê phán những tên này cố t́nh che
dấu tin tức để tẩu tán tài sản, nếu
tuyên bố thực sự ông Minh và toàn bộ kháng chiến
quân đă chết, bị bắt hay đầu hàng, tức
là Mặt Trận quốc nội không c̣n ai nữa làm sao mà
tiếp tục quyên tiền.
SỰ
THỰC VỀ CÁI CHẾT CỦA PHÓ ĐỀ ĐỐC
HOÀNG CƠ MINH.
Tháng 2 năm 1999,
các ông Bùi Bỉnh Bân và Hồ Anh Tuấn tố giác với
dư luận Nam California, Mặt Trận là Mafia, khống
chế các đoàn thể, t́m mọi cách xen lấn vào các
cộng đồng người Việt hải ngoại
để phá hoại, đưa người của
Mặt Trận vào các vị thế lănh đạo, dùng tiền
bạc mua chuộc và thao túng. Mặt Trận giật giây
giới trẻ, dụ dỗ giới trẻ hăng say và
đầy nhiệt huyết vào một tổ chức
ngoại vi lấy tên là Đoàn Thanh Niên
Phan Bội Châu.
Cũng do sáng
kiến của Nguyễn Xuân Nghĩa, Mặt Trận
lập ra hai tổ chức ngoại vi :
1/ Tổ chức Liên Minh
Việt
2/ Hội Chuyên Gia Việt Nam, lôi cuốn những chuyên viên
trẻ nhẹ dạ, trao cho kỹ sư Vũ Quư Kỳ,
cư ngụ tại Atlanta, Georgia, chạy theo ông Minh
cuối tháng 12 năm 1984. Rất nhiều bạn
trẻ đă tham gia hoạt động tích cực với
hoài băo đem tuổi thanh xuân hiến dâng cho quê
hương. Lư tưởng của họ rất cao
đẹp, suy tư của họ rất trong sáng,
thẳng thắn, tinh thần của họ rất mănh liệt. Nhưng
đáng tiếc họ đă bị lừa, và bị lừa
một cách hèn hạ, nhục nhă. Dư luận cho là
hầu hết các thành viên của “Hội Chuyên Gia Việt
Nam” đâu có biết rơ thân thế của vị chủ
tịch của họ, ông Vũ Quư Kỳ, người đă
từng là tay chân thân tín trong nhiều năm trời của
ông Tướng tham nhũng, trùm buôn lậu, cánh tay
đắc lực của Tonton Nguyễn văn Thiệu.
Họ có biết đâu họ đang bị khai thác
nhiệt huyết và năng lực quư giá nhằm phục
vụ quyền lợi riêng tư của Mặt Trận . Các bạn trẻ trong “Hội Chuyên
Gia Việt Nam” bị bọn người tham tàn, xảo
quyệt mượn danh nghĩa các bạn, các chuyên viên
trẻ và tài năng, để xây dựng đất
nước. . .với cộng sản, để nói với
cộng sản Hà nội rằng có chúng tôi đây, có
Mặt Trận đây! Chúng tôi sẵn sàng xóa bỏ hận
thù để cùng quư ông bắt tay xây
dựng đất nước, phục vụ đồng
bào, đưa đất nước theo kịp đà
văn minh của thế giới.
Thời gian này, anh
em Hoàng Cơ Long, Hoàng Cơ Định rút vào bóng tối,
đưa các cháu gọi bằng cậu, con ông bà Đỗ
Thúc Vịnh, Hoàng Thị An (chị ruột của Minh,
Long,Định ) như
Đỗ Hoàng Ư, Đỗ Hoàng Phiệt ở Houston,
Texas, Đỗ Hoàng Điềm đại diện Măït
Trận tại miền Nam California.
Cũng trong thời gian này, Nguyễn Xuân Nghĩa
cóp nhặt theo đường lối của đảng
cộng sản, đảng là ṇng cốt, tuyển chọn
những người chỉ biết có đảng,
đảng là trên hết, ṿng ngoài là Mặt Trận, như
Mặt Trận Việt Minh. Nghĩa thành
lập đảng Việt Tân làm ṇng cốt cho MTQGTNGPVN.
Hành động này làm cho nhiều đoàn viên Mặt
Trận bất măn v́ không được tuyển chọn
vào đảng Việt Tân với hai thủ lănh mới là
Hoàng Cơ Định và Nguyễn Xuân Nghĩa.
Giữa tháng 4
năm 1999, luật sư trẻ tuổi Hoàng Duy Hùng cư
ngụ tại
Năm 1987,
luật sư Hoàng Duy Hùng gia
nhập Đại Việt Cách Mạng của ông Hà Thúc Kư,
năm 1991, về nước hoạt động bị Việt
cộng bắt. Nhờ chính phủ Hoa Kỳ can thiệp,
năm 1993, ông được chính quyền cộng sản
trả tự do.
Trong thời gian
bị giam giữ, ông Hùng đă được những
bạn đồng tù nguyên là các tù hàng binh của Mặt
Trận kể cho ông nghe về cái chết của ông Hoàng Cơ
Minh.
Luật sư Hoàng
Duy Hùng được sự liên kết của nhóm ông Nguyên
Khôi, bà Đoan Trang ở San
José, Bắc California, nhóm ông Hồ Anh Tuấn ở Orange
County, Nam California, nhóm cựu đại tá Trương
như Phùng ở Houston, Texas, lập ra “diễn đàn công
luận” thách thức Mặt Trận đối chất.
Dĩ nhiên là Mặt Trận tránh né việc công khai
đối chất này, v́ biết rơ là phần thua sẽ
về phía ḿnh, thủ lănh Hoàng
Cơ Minh đă thực sự
bỏ thây tại Nam Lào.
Luật sư Hùng xuất bản một
cuốn sách về cái chết của Phó đề
đốc Hoàng Cơ Minh, tựa đề “Lột
mặt nạ MTQGTNGPVN” phổ biến rộng răi trong
khối người Việt tỵ nạn cộng sản
tại hải ngoại, làm sáng tỏ dư luận về
sự dối trá, gian giảo, lừa bịp của bọn
đầu lĩnh Mặt Trận.
Nhân dịp Tết
Trung Thu, Cộng Đồng Việt
Báo chí ở
- “Cái Nghiệp của ông
Hoàng Cơ Minh thật là nặng. Đă chết thảm, chết không toàn thây,
chết mất xác, chết thật đau đớn, và sau
khi chết hương hồn vẫn không yên. Nhà Phật thường dùng chữ Nghiệp
để giải thích cho những điều bất
hạnh gặp trong đời. Một bầy
đầu lĩnh bất tài, vô tướng, có tiền
trong tay cũng chỉ múa may quay
cuồng, bắng nhắng như một lũ
phường tuồng, đi thực hiện lồng
đèn nêu cao chính nghĩa cộng sản thay v́ chính nghĩa
quốc gia. Thật là tiền ngập
đến cổ, muốn nuốt cho trôi cũng phải có
một khả năng tối thiểu. Khả
năng này, nhóm lănh đạo Mặt Trận hiện nay,
thật là thiếu vắng.
Trăm, bia đá cũng ṃn,
Ngàn
năm, bia miệng vẫn c̣n trơ
trơ.
Không hiểu v́
nguyên do nào măi đến giữa năm 2001, bọn
đầu lĩnh Mặt Trận chính thức khai tử
cho phó đề đốc Hoàng Cơ Minh cùng số kháng
chiến quân đă tử trận.
Nhà báo Nguyên Thanh bên
Úc Đại Lợi, trong bài Chuyện Dông Dài với
tựa đề :
Việt Cộng cứu Mặt Trận
Hay
Mặt Trận cứu Việt Cộng
Bài viết mở đầu bằng hai câu thơ:
Anh linh
Liệt Sĩ hỏi Hoàng Cơ . . .
Định
bịp dân ta tới bao giờ ?
Băng nhóm Tội
Đồ Dân Tộc Mặt Trận Hoàng Cơ Định
sau khi tŕnh diễn một màn xác nhận “Muộn màng sau mười
bốn năm gian dối để rửa tiền” sự
tử trận của Phó đề đốc Hoàng Cơ
Minh cùng vài Liệt sĩ, đă bị mọi người
nguyền rủa thậm tệ.
Ông bác sĩ “chiến
hữu” Đặng Vũ Chấn là một cán bộ cao
cấp trong “Băng Đảng” được cử qua
Úc để thanh minh thanh nga, cứu nguy băng
đảng.
Nhà báo Nguyên Thanh
viết:
- Chúng tôi không thắc mắc về chuyện có
kháng chiến hay không có kháng chiến. Chúng tôi chỉ
thắc mắc về những nghĩa binh c̣n đang
bị nhốt trong lao tù cộng sản, về mấy ngôi
mộ không tên trong chiến khu, về cái chết không minh
bạch của Trung Tá Lê Hồng, về sự mất tích
của kháng chiến quân thứ thiệt Ngô Chí Dũng.
Đừng dùng sự lừa bịp
để che đậy điều gian dối.
Sự bưng bít
về cái chết của thủ lănh, của chính anh
ruột của ḿnh từ
năm 1987 mà măi cho tới năm nay, 2001, mới
“ậm ừ truy điệu” cho qua chuyện, là một thái
độ hết sức Tắc Trách và Vô Lương Tâm. Sự gian dối này kéo dài 14 năm. Năm
nào cũng vậy, cứ vào dịp Tết Âm lịch, báo
Kháng chiến lại có Thư
chúc Tết đồng bào của chủ tịch Hoàng
Cơ Minh (bản văn giả mạo này, dư luận
biết rất rơ là thiên tài Tuyên Vận đă sáng tạo
ra). Hành động ấy, liệu có thể
gọi là Hành Động Lường Gạt Đại Quy
Mô trải rộng toàn cầu không? Hành
Động khinh khi sự hiểu biết của
người dân Việt hải ngoại không? Nếu không gọi là Lường Gạt th́
gọi bằng chữ nghĩa ǵ? Ngây thơ ư ???
Vậy sau khi chính thức công nhận cái chết
của người lănh đạo tối cao của tổ
chức, Mặt
Trận nghĩ ǵ về câu hỏi:
- “Ai là tác giả của các lá thư chúc Tết
đồng bào ??????”.
Ma quỷ đâu có viết được,
phải là người, vậy người đó là ai ??????
Với chính sách bốn không, (không biết, không
nghe, không thấy, không nói), Mặt Trận cứ câm
miệng hến, theo đúng câu ngạn ngữ :
Lời nói là bạc, Im lặng là
vàng.
Mặt Trận chỉ thích vàng thôi !!!
Đây là chủ trương
của nhóm đầu lĩnh Mặt Trận hiện nay,
trường kỳ, bất di bất dịch.
VỤ ÁN TRỐN THUẾ
CỦA CÔNG TY NAKAMURA.
Ngày 22 tháng 4 năm 1991, cảnh sát
thành phố San José, Bắc California đă câu lưu Hoàng
cơ Định, vợ Định, (Phan Thị Hà)ø cùng ba
bộ hạ Nguyễn Kim Hườn, Nguyễn Tấn Bính
và Phan Duy Cần. Năm bị cáo trên sẽ bị xét
xử 26 điều khoản
về các tội âm mưu (conspiracy), khai gian thuế (false
statement on tax return), trốn thuế (tax evasion), và không khai
thuế (failure to file tax return).
Bản cáo trạng do một
Đại Bồi Thẩm Đoàn (Grand Jury) biểu
quyết nhằm truy tố :
1/ Định Cơ Hoàng, aka Dean
Nakamura, Vu Quang, Phan vu Quang,
2/ Hà Phan Hoang,
3/ Binh Tan Nguyen, aka Le van Nam,
4/ Huon Kim Nguyen, aka Steven Nakashima,
5/ Can duy Phan, aka James Masuda,
về các tội danh: âm
mưu (conspiracy), khai gian thuế (false statement on tax return), trốn thuế (tax
evasion), không khai thuế (failure to file tax return).
Tổng cộng là 26 tội danh.
Với số tiền bạc
lường gạt được của chiến hữu
và đồng bào cùng tiền lợi tức của các
cơ sở kinh tài, bọn đầu lănh Mặt Trận
đem ra bảo lănh số tiền thế chân rất cao, lo
việc tại ngoại cho những kẻ bị bắt
giữ trong vụ án trốn thuế. Tuy nhiên, theo thông
luật, ṭa án đă bắt bọn người này phải
nộp sổ thông hành, để không trốn đi ra
nước ngoài được, nhất là Nhật Bản,
v́ mấy người này đều lấy tên Nhật. Gian
manh nữa là Hoàng Cơ Định, trong thời gian
tại ngoại lập ra Quỹ Công Lư, kêu gọi chiến
hữu và đồng bào đóng góp tài chánh trang trải
tiền thuê mướn luật sư biện hộ.
Dư luận nặng nề chỉ trích Hoàng Cơ Định là con
người vô liêm sỉ, đă gian tham, lại trốn
thuế, nay lại lập ra quỹ công lư để moi
tiền những người nhẹ dạ hay bị đe
dọa. Thành thử, cũng không thâu được bao
nhiêu.
Đồng tiền đâm toạc
tờ giấy, án lệnh truy tố bọn người
gian dối được hủy bỏ ngày 15 tháng sáu năm 1966.
Tuy nhiên, ṭa án lương tâm và công
luận c̣n tồn tại măi
măi. H́nh ảnh 5 nhà lănh tụ Mặt
Trận bị c̣ng tay và đẩy lên xe cây, đồng bào
San José khó có thể quên.
VỤ MẶT TRẬN KIỆN BÁO CHÍ.
Đầu năm 1994, tôi nhận
được điện thoại của anh Vũ
Ngự Chiêu, tức nhà văn Nguyên Vũ, giám đốc nhà
xuất bản và phát hành Văn Hóa, yêu cầu tôi ra làm
chứng cho vụ ba đầu lĩnh Mặt Trận,
Hoàng Cơ Định, Nguyễn Xuân Nghĩa và Trần Xuân
Ninh kiện nhà văn Nguyên Vũ,
giám đốc nhà xuất bản Đa Nguyên, đă cho
in và phát hành cuốn hồi kư
chính trị Mặt Trận, những sự thực chưa
hề được kể của nhà văn Cao Thế
Dung năm 1992. Suy nghĩ
một lúc, tôi nhận lời, anh Vũ Ngự Chiêu là
bạn tôi, t́nh thân như ruột thịt, Nguyên Vũ hay
Chính Đạo là nhà văn có nhiều tác phẩm và bài phân
tách chính trị, tôi ưa thích .
Những ngày kế tiếp, tôi
nhận được điện thoại của ông Cao
Thế Dung, tác giả cuốn hồi kư chính trị Mặt
Trận, những bí mật chưa hề tiết lộ
về Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh và
đặc biệt là tổ chức K 9, cũng yêu cầu
tôi ra làm chứng cho vụ ông bị nhóm ba đầu
lĩnh Mặt Trận kiện .
Tôi đă nhận lời ra làm
chứng cho nhà văn Nguyên Vũ, tôi không chần chừ
nhận lời. Ông Cao thế Dung, tôi đă biết từ
ngày ở Saigon, qua Hoa Kỳ, ông là chiến hữu trong
Mặt Trận. Thêm nữa, ông là nhà văn và nhà báo can
đảm, không sợ bạo lực, viết lên những
sai trái, nhem nhuốc, gian giảo của Mặt Trận.
Ông
Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng, chủ báo Văn Nghệ
Tiền Phong (VNTP) cũng
gọi cho tôi yêu cầu tôi ra làm chứng về vụ ông
bị ba người đầu lĩnh Mặt Trận thưa ra ṭa, v́ báo
VNTP đă cho đăng tải những bài viết của
Lê Kính Dân “Ai giết vợ chồng kư giả Lê Triết”,
Lê Bằng Phong và Chu Tri Lục viết khen tặng và
phụ họa bài của Lê kính Dân.
Tôi
nhận lời yêu cầu của ông Nguyễn Thanh Hoàng, ông
Hoàng với tôi quen biết nhau từ ngày tôi theo học trên
trường Vơ Bị Dalat năm 1952, và những ngày sau khi
ông làm chủ những tờ
báo Ngôn Luận, Văn Nghệ Tiền Phong ở Saigon,
kể cả thời gian tỵ nạn qua Hoa Kỳ, ông Hoàng
với tôi vẫn là bạn có giao hảo tốt.
Ngoài
sự quen biết và t́nh bằng hữu, tôi nhận lời
yêu cầu của cả ba người, ra làm chứng là v́
chính nghĩa, v́ công đạo, v́ công lư, tôi không muốn
thấy nhóm đầu lĩnh Mặt Trận hiện nay
mang tiền bạc phi nghĩa ra, định làm hại ba
người trong giới văn bút, báo chí.
Ngày
13 tháng 5 năm 1994, Luật sư
Kleven, thầy căi cho phe nguyên đơn, có Hoàng
Cơ Định đi theo
đến Austin, Texax, lấy lời khai của tôi, nhân
chứng cho phía bị cáo.
Tôi
trưng ra những tài liệu chứng minh Hoàng Cơ
Định là một con người sảo trá, gian manh,
bạo tàn. Trước đó, tôi tra cứu tự
điển dịch mấy chữ
nhận xét về anh em họ Hoàng Cơ, như
bịp bợm, dối trá, lường gạt, phản
bội, v.v. . .ra tiếng Anh cho đúng. Tưởng tôi có
tài liệu thành văn, luật sư Kleven đ̣i xem và ghi vào biên
bản.
Ông
Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng cho biết đă nhờ
một luật sư Mỹ biện hộ, tên là Richard D.
Givens ở Redwood City. Nhà văn Nguyên Vũ cho
biết đă nhờ được luật sư
Nguyễn Tâm có văn pḥng tại
San Jose, biện hộ, chỉ có ông Cao Thế Dung
lấy lư do nghèo nàn, không có tiền thuê mướn luật
sư, được ṭa cho tự biện hộ.
Phiên
ṭa chính thức bắt đầu từ ngày 5 tháng 12 năm
1994 tại ṭa Thượng Thẩm hạt Santa Clara ngay
trung tâm thành phố San José.
Ngày 12 tháng 12 năm 1994, tôi đáp
máy bay qua San José, tới phi trường được Nguyên Vũ và cựu chiến hữu Vũ
hữu Dũng đă chờ sẵn, đưa tôi về nhà
anh Dũng. Chiêu cũng ở đó, sau này có thêm Cao Thế
Dung tới. Tội nghiệp anh chị Dũng đă
phải thu xếp việc ăn ngủ cho ba chúng tôi, lại
phải lo la-de (beer) cho nhà
văn Cao Thế Dung.
Nguyên Vũ
tŕnh bầy là giai đoạn đầu của phiên
ṭa hộ. Phiên ṭa do ông Thẩm phán Joseph F. Biafore, Jr. điều hợp.
Nguyên Vũ cười nói:
- “Anh biết không, việc xét
xử vai tṛ xă hội của
các nguyên đơn mới thật quan trọng, v́ nó
quyết định phần nào kết quả vụ án.
Trong các vụ án hộ hay dân sự (civil), luật pháp
Mỹ có những điều khoản khác nhau tùy theo “vai tṛ
xă hội” của nguyên đơn . Nếu nguyên đơn
là thường dân (private citizen)
họ được luật pháp bảo vệ
rất kỹ. Nhưng nếu phe nguyên đơn là
người của đám đông hay nhân vật cộng
đồng (pubic figures), họ phải chấp nhận
sự chỉ trích của giới báo chí và dư luận.
Ngày 7 tháng 12, 1994, sau nhiều ngày tranh căi của hai phía
luật sư, thẩm phán Biafore phán quyết các nguyên
đơn là người của đám đông.
Ngược lại, phía bị cáo không được
nhắc nhở ǵ đến vụ án trốn thuế
của vợ chồng Hoàng Cơ Định và thuộc
hạ. Tiếp đến là việc lựa chọn 12
vị bồi thẩm chính thức và 2 dự khuyết
cũng thật gay cấn, phải mất 2, 3 ngày mới
xong.”.
Tuy
nhiên, Nguyên Vũ khẳng định, thế nào phía bị
cáo cũng thắng kiện.
Nguyên Vũ và tôi hàn huyên đủ
mọi chuyện về phiên ṭa, phe nguyên đơn, phe
bị cáo, điểm mạnh, điểm yếu của
hai phe. Nguyên Vũ nhấn
mạnh về trường hợp Cao Thế Dung.
Điểm yếu nhất của ông Dung là không có luật
sư, phải tự biện hộ, Anh ngữ giới
hạn, phải dùng thông dịch viên. Ông Dung ăn nói lưu
loát, nhưng nhiều khi đi quá trớn v́ hăng say, tuy
nhiên khiêm tốn, nhă nhặn, gây được cảm t́nh
của Bồi thẩm đoàn. Luật sư Nguyễn Hữu Liêm
được phe bị cáo mời biện hộ cho ông
Dung, nhưng luật sư Liêm chỉ nhận sẽ
thủ vai tṛ “cố vấn”.
Phe nguyên đơn, Hoàng Cơ
Định nhất thời tưởng là mạnh. Thái
độ kiêu căng, ngạo mạn, mặt trơ, trán
bóng, lúc nào cũng vênh lên, cậu ấm con quan, kẻ
cả ta đây, tốt nghiệp tiến sĩ từ bên
Pháp, lắm tiền nhiều bạc, dù tiền bạc toàn
là thứ phi nghĩa, tham lam, gian giảo, làm mất cảm
t́nh của Bồi thẩm đoàn.
Tôi lắng nghe Nguyên Vũ tŕnh
bầy, tôi có ư kiến:
- “Ba bị cáo, Cao Thế Dung,
Nguyễn Thanh Hoàng và Nguyên Vũ như ba tay chèo trên một
con thuyền nhỏ trong cơn sóng gió, không những
phải vững tay chèo, không sợ sệt, không rối trí,
không nản ḷng, mà c̣n phải liên kết chặt chẽ,
chung sức, ba người như một. Nếu có một
người nhảy ra khỏi thuyền, thuyền sẽ
đắm, cả ba người sẽ đắm theo thuyền.
Vậy phải liệu trông nhau, bảo nhau, giúp nhau, b́nh
tĩnh, chịu đựng, trí óc lúc nào cũng giữ cho
tỉnh táo, sáng suốt. Anh nghĩ Nguyên Vũ thừa
biết những điều anh vừa nói, anh tin vào Nguyên
Vũ thừa nghị lực và khả năng để
thực hiện việc giữ cho con thuyền khỏi
đắm.”.
Tôi cũng có ư kiến về
sự thông cảm, kết hợp giữa hai luật
sư, Richard Givens và Nguyễn Tâm. Hai vị luật sư,
một Mỹ, một Việt, phải hướng dẫn
khéo léo các bị đơn, các nhân chứng, cung khai ở
ṭa, kẻ nâng, người đỡ, né chỗ mạnh,
t́m chỗ yếu, chỗ sơ hở của phe nguyên
đơn mà khai thác triệt để.
Nói tóm lại, việc thắng
bại cho phiên ṭa là do ở sự đoàn kết một
ḷng của ba bị cáo và sư liên kết, phối hợp
giữa hai luật sư.
Tôi
đề nghị Nguyên Vũ bàn với luật sư
Nguyễn Tâm triệu tập một phiên họp đông
đủ có mặt cả bị cáo, chứng nhân và
luật sư vào ngày chủ nhật ngay tại văn pḥng
luật sư Tâm, để thông qua những điểm
cốt yếu, vai tṛ của từng người, chiến
lược và chiến thuật áp dụng để đi
tới toàn thắng. Trong buổi họp, tôi đề
nghị, sau mỗi buổi ṭa, ba bị cáo tới nhà anh
Vũ Hữu Dũng họp, để khai thác những
ưu khuyết điểm của từng người phía
ḿnh và những ưu khuyết điểm phía nguyên
đơn, ngày hôm sau, ra đ̣n cho thật đúng.
Bên phía nguyên đơn đưa ra
hai nhân chứng, An Nguyễn tức Nguyễn Kiển
Thiện Ân, hồi c̣n ở Saigon, làm Thứ Trưởng
của chính phủ Nguyễn Văn Lộc (1967-1968), qua Hoa
Kỳ làm thông dịch viên các ṭa án hạt Santa Clara. Ông
Nguyễn Ngọc Bích, khai trước ṭa, du học tại
Mỹ năm 1956, tốt nghiệp đại học
Princeton, về nước làm viện trưởng
đại học Mékong từ 1972-1975.
Cá nhân tôi biết ông Bích nhiều,
cùng với anh em ông là các ông Nguyễn Ngọc Linh, Nguyễn
ngọc Phách, Nguyễn Ngọc Nhạ, v.v. . .Tôi không
hiểu tại sao ông Bích lại nhận lời ra làm
chứng cho phía nguyên đơn.
Bên
bị đơn, thoạt đầu, Nguyễn Thanh Hoàng
mời ông Hoàng Xuân Yên, tức kư giả Hoàng Xuyên, nhưng
ông Yên từ chối không nhận. Ông Nguyễn Đạt
Thịnh từ Hawaii bay qua San José làm nhân chứng theo lời
mời của nhà văn Nguyên Vũ, nhưng sau Nguyên Vũ
quyết định chỉ đưa ông chủ báo
Diều Hâu lên bục nhân chứng nếu cần.
Rốt
cuộc, có Vũ Hữu Dũng, cựu trung tá Nguyễn
Xuân Phác, (một thời làm chủ báo Dân Tộc, Dân
Việt và rồi Người Việt Bắc Cali. Ông là
người đầu tiên đă công bố những gian lận, tham tàn
của Hoàng Cơ Minh và anh em, gịng họ) và tôi là nhân chứng của phía
bị đơn.
Tôi
không thể nêu ra đây, trong cuốn sách này, tất cả
chi tiết phiên ṭa, như
cuốn “Một ngày có. . . 26 giờ “, bút kư của Nguyên
Vũ về vụ án lịch
sử Báo Chí Hạ Đo Ván Mật Trận. . . Kháng
Chiến William Nakamura, dầy 300 trang, và cuốn “Mặt
Trận kiện Báo Chí”, tường thuật của
Trần Củng Sơn diễn tiến từng ngày về
phiên ṭa Mặt Trận Kiện Báo Chí vào cuối năm 1994,
dầy hơn 200 trang, v́ đây chỉ là một
chương, trong tập 3 cuốn hồi kư Trả Ta Sông
Núi khoảng 30 trang giấy. Tôi chỉ viết những
chuyện “ái, ố, hỷ, nộ” đă xẩy ra trong phiên
ṭa.
Người đặc biệt
trong số 3 bị đơn, nhà văn Cao Thế Dung
đă là một minh tinh sáng chói trong suốt phiên ṭa:
1/ Ông
Dung đă tŕnh diện trước thẩm phán và các bồi
thẩm h́nh ảnh một nhà văn trên 60 tuổi, nghèo
đến độ không có tiền mướn luật
sư, kiêm tốn và lịch sự, nhưng đủ can
đảm đương đầu với thứ móng vuốt
vô h́nh của bạo lực, gian trá và lươn lẹo,
đương đầu với mănh lực của kim
ngân.
2/ Ông Dung nổi bật với hai
điểm trong bài diễn văn, ông nói với giọng
từ tốn, khiêm cung, nhưng rất đanh thép, cao
giọng, khi hai lần chỉ thẳng vào ba nguyên
đơn “Mặt Trận là ba người này, ba
người này là Mặt Trận.”.
Hay nhất là mỗi lần
đến lượt ông được kêu lên trả
lời hoặc cung khai, ông bước ra vái ông thẩm phán,
vái bồi thẩm đoàn, vái luôn cả các bạn bè, thân
hữu ngồi dưới ghế thính giả. Thái
độ của ông Dung gây xúc động và cảm t́nh
của bồi thẩm đoàn.
3/ Phía nguyên đơn, luật
sư Kleven, dụng tâm đánh mạnh vào điểm nghi
ngờ ông Dung không có bằng tiến sĩ (PhD hay được gọi là
Doctor) mà dám nói là có.
Ông
Dung trả lời về điểm này rất vui, ông nói
thưở nhỏ, nhà nghèo, không đủ tiền cho ông
đi học, ông phải đi chăn trâu độ
nhật, tối về tự học dưới ánh
trăng hay ánh lửa bếp. Ông cố học đỗ
bằng tiểu học. Luật sư Kleven đánh
tiếp:
- “Ông Dung, ông cho chúng tôi biết, ông
có bằng trung học không?”.
Họ Cao không trả lời
thẳng vào câu hỏi, nói:
- “Sau khi tôi đỗ tiểu
học, bố mẹ tôi lần lượt qua đời,
tôi phải qua ở nhờ bà cô tôi. Bà bảo tôi, cháu đă
có bằng tiểu học, cháu nên cố học lấy
bằng thành chung (trung học), cô sẽ cố làm nuôi cháu
ăn học. Tôi học trung học ở trường
phủ (nhà quê).
Cứ mỗi lần ông nói về
việc học hành của ông trong sự nghèo nàn của gia
đ́nh, ông lại chỉ vào mặt Hoàng Cơ Định
và Hoàng Cơ Long nói :
- “Tôi đâu có được
học hành ở những trường to lớn trên thành
phố như những
người này. Ông cha chúng trước kia làm quan tham
nhũng, hối lộ, giúp giặc Pháp dẹp những
phong trào kháng chiến, nhiều tiền bạc nuôi chúng
ăn học trong sự cao sang, giầu có, trường to,
trường tốt.”.
Luật sư Kleven nhiều lần giơ tay “objection !” (phản
đối), nhưng quan ṭa vẫn cho tiếp tục.
Ông Dung tiếp tục kể :
- “Tôi cố gắng học,
đỗ cả hai bằng tú tài. Bà cô tôi
bảo, cháu học được lắm, người ta
học đỗ cử nhân, cháu nên cố gắng học
lấy bằng cử nhân.”.
Nghe lời bà cô, tôi học tiếp
cũng trong sự nghèo nàn, chật vật về cuộc
sống nương tựa bà cô tôi. Tôi đỗ bằng cử nhân. Ông lại quay về phía anh em họ Hoàng Cơ, nói
gay gắt như ở trên. Luật sư Kleven giơ tay “objection”, ông
ṭa cho tiếp tục. (Tôi nghĩ
ông thẩm phán muốn t́m hiểu vấn đề
giáo dục của Việt Nam như thế nào, nên mỗi
lần luật sư nguyên đơn giơ tay “objection”, ông
vẫn tiếp tục cho ông Dung nói tiếp.)
Luật sư Kleven hỏi:
- “Ông Dung, ông cho chúng tôi biết, ông có bằng
tiến sĩ không?, Trường nào và
năm nào?”.
Ông Dung không trả lời thẳng vào câu hỏi,
ông nói ṿng quanh:
- “Sau khi tôi đậu bằng cử
nhân, tôi vừa đi dậy học vừa tiếp tục
học lấy tiến sĩ. Tôi đâu có cha ông làm
quan, tham nhũng, vơ vét tiền bạc của dân nghèo,
thăng quan tiến chức v́ làm bầy tôi hữu hiệu cho giặc Pháp xâm
chiếm và cai trị nước Việt Nam, để
được gửi đi học tận bên Pháp như
bọn người này”.
Ông Dung vừa nói vừa chỉ vào Hoàng Cơ Định.
Luật sư Kleven giơ tay “objection”, ông ṭa vẫn cho ông
Dung tiếp tục.
Luật sư Kleven:
- “Ông Dung, ông không trả lời câu
hỏi của tôi, chúng tôi muốn biết, ông có bằng
tiến sĩ không? Trường nào cấp
bằng cho ông ? “.
Họ Cao ṿng vo tam quốc,
trả lời:
- “Tôi có đậu bằng tiến sĩ, tôi không theo học trường đại học
nào ở Hoa Kỳ, tôi cũng không học ở bên Pháp
như tên này”, ông lại chỉ vào Hoàng Cơ Định
Luật sư Kleven không nén được sự sốt
ruột, lên tiếng:
- “Ông Dung (Mr. Dung, đáng lẽ phải kêu ông Dung
là Dr. Cao), ông nói, ông có bằng tiến sĩ bên Pháp, ông cho
biết trường nào?”.
Ông Dung lại ṿng vo trả
lời:
- “Tôi học bên Pháp, nhưng tôi không
qua Pháp như tên này (lại chỉ vào Hoàng Cơ
Định), tôi học par correspondant (hàm thụ). Anh em, thân hữu ngồi dưới ghế thính
giả lo quá, không hiểu ông Dung trả lời ra sao.
Luật sư
Kleven:
- “Ông Dung, tôi chỉ hỏi ông tốt nghiệp
tiến sĩ trường nào?”.
Họ Cao trả lời vẫn với giọng
ẫm ờ :
- “À, tôi tốt ngiệp tiến
sĩ tại một trường ở Paris, trường
“Ecole Universelle de Paris “. V́ tôi học hàm thụ, nên nhà
trường gửi bằng qua đường bưu
điện tới cho tôi. Tôi nhận được
bằng, nghĩ đến công ơn của bà cô tôi, đă
mất, tôi đem tấm bằng ra mộ bà cô tôi, cúng vái, khấn khứa xong,
tôi bật lửa đốt tấm bằng cho cô tôi ở
dưới suối vàng biết là tôi đă đậu
tiến sĩ.”.
Cả ṭa, kể cả ông thẩm
phán, các bồi thẩm và thính giả, như coi một
cuốn phim hay, nín cười không nổi.
Buổi tối, tôi bàn với
Vũ hữu Dũng và Nguyên Vũ, trêu chọc Cao Thế
Dung một tí cho vui. Khi chị Dũng dọn cơm ra, tôi
yêu cầu chị lấy hai lon la de Budweiser để
thưởng ông Dung, bữa nay diễn xuất quá hay ở
ṭa. Tôi lại nói:
- “Kỳ này về, tôi sẽ làm
một cuốn phim bộ, ông Dung thủ vai chính, như
một hiệp sĩ, mặc quần áo toàn mầu
trắng, đầu chít khăn tang trắng, trên lưng
đeo thanh bảo kiếm, tay mặt cầm tấm
bằng, vai trái đeo một
bị lon Budweiser. Khi ra tới mộ bà cô, hiệp
sĩ họ Cao để các thứ đeo trên người xuống
trước ngôi mộ, đoạn lấy lửa
đốt tấm bằng, miệng khấn vái, hôm nay cháu ra thăm
mộ cô, cháu đốt mảnh bằng tiến sĩ,
để dưới suối vàng cô biết là cháu đă
đỗ bằng tiến sĩ, như lúc sanh tiền cô
vẫn mong đợi. Khấn vái xong, Cao tráng sĩ rút thanh kiếm ra khỏi vỏ,
múa mấy đường kiếm, vừa múa vừa ca :
- “Ta tráng sĩ họ Cao hề, gặp thời
nhiễu nhương hề. Ta không sợ bạo lực
hề, ta không sợ mănh lực kim ngân hề. Ta tráng sĩ
họ Cao hề. Quyết dẹp tan bọn gian tà hề.
Quét sạch nhiễu nhương trong cộng đồng
hề. Cho đồng bào sống yên vui hề.
Múa xong bài kiếm, ca hết bài ca,
tráng sĩ họ Cao ngồi
xếp ṿng tṛn trước mộ bà cô, lấy ra một
miếng thịt ḅ khô, mở la de ra nhậu.
Khi uống xong sáu lon la de, tráng
sĩ họ Cao lại đeo
bảo kiếm trên vai, đứng lên vái mấy vái, rồi
lên đường hành hiệp.”.
Vũ Hữu Dũng và Nguyên Vũ
vỗ tay tán thưởng, phàn nàn không được
đóng chung với Cao Thế Dung trong cuốn phim. C̣n
họ Cao tuy vui trong bụng, nhưng nhăn mặt lắc
đầu nói:
- “Anh Bảy trêu đàn em quá, em khai
là ra mộ bà cô đốt bằng là có chủ đích, em
muốn bảo chúng nó rằng “bằng cái mả mẹ
tụi bay”.
Luật sư Kleven bên nguyên
đơn, hết truy ông Cao Thế Dung về bằng
cấp không được, ông truy qua là ông Dung có tham gia
Mặt Trận hay không? (theo phía nguyên đơn khẳng
định với ông là ông Dung chưa bao giờ tham gia
Mặt Trận, ông Dung có mặt trong các buổi họp
của Ban Chấp Hành TVHN là do ông Tổng vụ
Trưởng dẫn
đến.)
Một buổi ṭa, luật sư
Kleven chất vấn :
- “Ông Dung, ông cho chúng tôi biết ông
có tham gia Mặt Trận không?”. (lưu ư là luật sư
Kleven luôn kêu ông Dung là Mr. Cao, không lần nào ông kêu là Dr. Cao).
Ông Dung được anh em căn dặn là khi luật sư hỏi, cứ b́nh tĩnh suy
nghĩ cho kỹ càng rồi hăy trả lời, không nên
hấp tấp, vội vàng.
Chúng tôi nghĩ tiếng Anh của
ông đủ để nghe biết luật sư chất
vấn ǵ cũng như trả lời, nhưng ông Dung
đă yêu cầu được một thông dịch viên
giúp. Bà Tô Hà là thông dịch viên hữu thệ
được ṭa mời tới giúp ông Dung. Khi thấy
luật sư Kleven hỏi về việc ông Dung có là thành
viên của Mặt Trận hay không, anh em mừng quá, ông Dung
chỉ việc xuất tŕnh tờ quyết định
của Tổng vụ Trưởng Trần Trung Sơn kư và
đóng dấu, cho ông Dung làm Chủ nhiệm Ủy Ban Chính
Trị của Tổng vụ hải ngoại là bên nguyên
đơn trắng mắt. Không hiểu ông Dung nghe bà Tô Hà
dịch sao, ông ngẩn mặt suy nghĩ, và trả lời
dơng dạc “không” (no). Anh em ngồi dưới hàng ghế
thính giả nhăn mặt, lắc đầu, không hiểu
sao ông Dung lại trả lời “không”.
May là đúng lúc đó ông Thẩm
phán ra hiệu nghỉ trưa, chiều họp tiếp.
Trong bữa cơm trưa, anh em
hỏi ông Dung, ông nghĩ sao, mà lại trả lời “không”.
Ông Dung nhăn nhó nói :
- “Tôi nghĩ họ đặt
bẫy tôi, tôi nghe bà thông dịch viên dịch lại, tôi
tưởng họ hỏi tôi là tôi có tham gia Mặt Trận
Giải Phóng không, (Mặt Trận Giải Phóng do cộng
sản Hànội lập ra), v́ vậy tôi trả lời
không.
Giận quá, tôi nói :
- “Thế tiếng Anh của ông
cũng không nghe hiểu là họ hỏi ǵ sao?.”.
Buổi chiều, ông Dung xin
được xuất tŕnh bản quyết định và
xin sửa lại cho đúng.
Thế là hai điểm mà luật
sư Kleven xoáy vào ông Dung để chứng
minh là ông Dung nói dối, man trá trước ṭa, nếu
như vậy th́ cuốn Mặt Trận và những bài
viết trên báo VNTP, ông Dung cũng đă dối trá, viết
không có chứng cớ, gieo vạ cho ba nguyên đơn.
Chỉ cần hạ một ông Dung là kéo theo cả ba
bị đơn thua kiện.
Cả hai điểm, ông Dung
đều qua được.
Bây giờ, đến lượt
những chuyện hỷ, nộ phía nguyên đơn.
Khi luật sư Richard Givens
hỏi Hoàng Cơ Định:
Hỏi : Mặt trận có vào
sổ bộ (tức đăng kư, register) không?
Đáp : Không !
Hỏi : Mặt trận có giữ
sổ sách quyên góp tiền không ?
Đáp : Không !
Hỏi : Mặt trận có đóng
thuế không ?
Đáp : Không !
Phản ứng của Bồi
thẩm đoàn, một bồi thẩm đoàn hầu
như chưa biết ǵ về Mạt Trận và sinh
hoạt cộng đồng Việt Nam, sau mấy câu
đối đáp này rơ ràng bất lợi cho Hoàng Cơ
Định và phía nguyên đơn.
Ba tiếng trả lời “No” khô
gọn, chẳng một chút ngại ngùng, ngượng
ngập của Hoàng Cơ Định bộc lộ bản
chất con người bạo ngược, tham tàn và
sự lường gạt có tính toán của anh em họ
Hoàng Cơ.
Một buổi ṭa khác, khi luật
sư Nguyễn Tâm xin tŕnh ṭa chứng liệu (exhibit)
một xấp h́nh, trong đó có một tấm h́nh chụp
mấy ngày sau khi Hoàng Cơ Minh chết ở Hạ Lào
hơn 7 năm trước.
Luật sư Tâm từ tốn yêu
cầu Hoàng Cơ Định lật tới h́nh thi hài
của ông Minh, cao giọng hỏi:
- “Ông Hoàng Cơ Định, ông có
nhận ra ai trong h́nh đó không?”.
Hoàng Cơ Định chỉ
liếc mắt qua tấm h́nh, thản nhiên đáp:
- “Không”.
Thật là bất nhân, bất
nghĩa, táng tận lương tâm, một người
vẫn cho ḿnh là con gịng, cháu giống, được nuôi
ăn học, đỗ đạt đến cấp
tiến sĩ Pháp, nỡ đang tâm không nh́n nhận tấm
h́nh thi hài của chính người anh ruột ḿnh.
Luật sư Tâm không chịu tha,
ông hỏi Hoàng Cơ Định về cái chết của
Hoàng Cơ Minh :
Định trả lời :
- “Tôi tin
rằng anh tôi vẫn c̣n sống.”.
Nguyên đơn thứ hai, y sĩ
Trần xuân Ninh, sinh ngày 4-10-1936 tại Hànội, tốt
nghiệp y khoa vào năm 1963. Sau khi miền Nam mất, ông
Ninh đi cải tạo 2 năm, qua Hoa-Kỳ năm 1979,
tạm cư tại Hayward, Bắc California, hành nghề
tại Chicago. Theo ông Ninh, người con trai độc
nhất của vợ chồng ông bị chết thảm
trên đường vượt biển t́m tự do, lư do
đó, ông rất thâm thù cộng sản. Ông gia nhập
Mặt Trận năm 1984.
Qua sự hướng dẫn
của luật sư Kleven, với lối tŕnh bày lưu
loát, hoạt bát, ông Ninh đă tự tạo cho ḿnh h́nh
ảnh một vị y sĩ
tận tâm về chức nghiệp, yêu thương
đồng bào, ṇi gống, quyết tâm lật đổ
bạo quyền cộng sản, mưu cầu hạnh phúc
cho toàn dân. Cách diễn xuất của ông Ninh cùng với
sự nể v́ đối với giới y sĩ, ông Ninh
phần nào đă gây được thiện cảm của
Bồi thẩm đoàn. Ông Ninh chủ trương chiến
dịch chống kinh tài cộng sản và cấm du lịch
Việt Nam. Dư luận trên Chicago cho rằng y sĩ Ninh đă cho đàn em đốt
nhà một người Việt tên Lâm Tôn chống lại
lệnh cấm, đă về thăm quê hương.
Luật sư Givens hỏi :
Hỏi : Ông Ninh, ông biết
chuyện ǵ xẩy ra cho ông Lâm Tôn sau chuyến đi về
Việt Nam không?
Đáp : Ông ta bị vợ ly
dị.
Hỏi : Ông biết việc có
người đốt nhà ông Lâm Tôn không?
Đáp : Tôi chỉ biết nhà ông
Lâm Tôn bị cháy.
Luật sư Nguyễn Tâm chất vấn ông
Ninh về cái chết của Hoàng Cơ Minh. Bằng
chứng của phía bị đơn số 258, tức
hồ sơ h́nh ảnh về Mặt Trận
được trao cho ông Ninh. Chỉ vào tấm h́nh chụp
thi hài ông Minh, luật sư Tâm hỏi :
Hỏi : Y sĩ Ninh, xin cho biết ông có nhận ra
ai trong tấm h́nh đó không ?
Đáp : Không.
Hỏi
: Theo ông, ông Hoàng Cơ Minh c̣n sống hay đă chết
?
Đáp : Tôi nghĩ rằng ông Minh
c̣n sống. (ông Ninh không dám quả quyết mà nói tôi nghĩ rằng).
Nguyên đơn thứ ba
được mời lên bục nhân chứng là ông
Nguyễn Xuân Nghĩa, tức Nguyễn Đông Sơn.
Dư luận toàn thể người Việt tỵ nạn
cộng sản kết tội ông là nằm vùng cho cộng
sản, được gài vào Mặt Trận để phá
hoại. Nhiều người c̣n cho là chính ông Nghĩa
đă mật báo cho cộng sản biết đường
lối chuyển trại của ông Minh, phục kích
để tiêu diệt ông Minh
và các kháng chiến quân. Ông Nghĩa đă rời Mặt Trận
trước khi xẩy ra vụ án thuế khóa, ông đă
cộng tác với cơ quan an ninh của Hoa-Kỳ, nên
đă không bị câu lưu cùng với năm đầu
lĩnh của Mặt Trăn tại hải ngoại.
Ông Nghĩa giữ thái độ
ḥa nhă với phía bị đơn.
Dưới sự hướng dẫn của
luật sư Kleven, ông
Nghĩa khai, sinh ngày 11-11-1944 tại Hànội. Cha là
Nguyễn văn Hiếu, kỹ sư công chánh, anh em thúc bá
ruột với Nguyễn Văn Linh tức Mười Cúc,
Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam
từ 1986 tới 1991.
Ông Nghĩa tốt nghiệp
trường Cao đẳng thương mại tại
Paris, với bằng HEC (Hautes
Etudes Commerciales).
Ra hải ngoại ông Nghĩa tham
gia Mặt Trận từ tháng 6 1984 với chức Vụ
Trưởng vụ Tuyên Vận. Luật sư Nguyễn Tâm
chất vấn ông Nghĩa về việc tại sao không
phải đi cải tạo như các công chức cao
cấp khác trong chính quyền miền Nam. Ai là tác giả bài
viết kư tên Nguyễn Xuân Nghĩa trên một tạp chí
cộng sản chiến
dịch chống kinh tài cộng sản và du lịch Việt
Nam.
Luật sư Tâm lại xoáy vào việc sống,
chết của Hoàng Cơ Minh. Nh́n vào tấm h́nh Hoàng Cơ
Minh một lúc, ông Nghĩa ấp úng nói:
- “Tôi không biết ai trong tấm h́nh.”.
Trả lời câu hỏi, Hoàng Cơ Minh c̣n
sống hay đă chết, ông Nghĩa đáp:
- “Tôi không biết .” (I don’t know).
Khi luật sư Tâm vặn hỏi,
tại sao trước đây ông tuyên bố ông Hoàng Cơ
Minh c̣n sống. Ông Nghĩa đáp:
- “V́ ngày ấy, tôi c̣n ở trong
Mặt Trận.”.
Không biết ông Nghĩa có dụng ư
ǵ khi trả lời như trên. Câu nói này chứng
tỏ sự gian dối của các đầu lĩnh
Mặt Trận. Sự kiện này khiến Hoàng Cơ
Định và Trần Xuân Ninh
không dấu được sự bất măn. Phía
bị đơn cũng không che dấu được sự vui
mừng, tin tưởng sẽ nắm phần thắng.
Phải nh́n nhận là những nhân chứng phe
bị đơn, từ Vũ hữu
Dũng, tới tôi và Nguyễn Xuân Phác đă làm tṛn trách
nhiệm. Nhất là anh Nguyễn Xuân Phác đă nhấn
mạnh y sĩ Ninh là con người có hai bộ mặt, y sĩ
Ninh giống hệt như y
sĩ Jekyll và ông Hyde trong
một cuốn phim. Có lúc ông ta rất dễ
thương, là một y sĩ tài giỏi. Nhưng có
lúc ông ta lạnh lùng, tính toán, cực đoan, có khả
năng làm bất cứ ǵ để đạt
mục tiêu.
Ông Phác cũng khai trước ṭa, sau
những loạt bài chỉ trích Mặt Trận, ṭa báo
của ông bị đập phá, cá nhân ông bi đe dọa. Với
sự hướng dẫn của luật sư Tâm, ông Phác khai thêm là tờ
báo Dân Việt của ông phải đóng cửa v́ các cơ
sở thương mại sợ móng vuốt của
Mặt Trận, rút hết quảng cáo.
BẠO
LỰC ĐI VÀO T̉A.
Buổi ṭa nào cũng có hai ba nhân viên FBI và
thám tử Zwemke tới tham
dự . Ngày 21 –12- 1994, ṭa vẫn họp như
thường lệ. Hôm nay, có lẽ Hoàng Cơ Định nghĩ là phía
nguyên đơn nắm chắc phần thắng vụ
kiện nên động viên đại lực lượng
đến ṭa để làm áp lực và biểu dương
khí thế đấu tranh. Đoàn viên Mặt Trận
ngồi kín cả phía bên nguyên đơn, tràn qua cả phía
bị đơn.
Phiên ṭa buổi sáng vừa tan, Bồi thẩm đoàn c̣n
đang lục tục rời pḥng xử, nhân viên FBI và
cảnh sát vừa bước ra khỏi hành lang, ông Cao
thế Dung rời chỗ ngồi bước về phía
tôi. Nhanh như
cắt, Đoàn trọng Thê, K 9, chạy lao
tới phía tôi đang đứng, dơ tay dí vào ngực
tôi, dáng điệu hung bạo và sừng sộ, gằn
giọng nói với tôi:
- “Sao anh không mang theo Nguyễn
Bích Mạc mà anh mang mấy con dogs này tới đây?
Tôi điềm nhiên, dịu dàng trả lời Thê ngắn gọn, kẻ cả. Trực giác
thấy điều ǵ bất thường, bị
đơn Cao Thế Dung nh́n nhanh về phía Hoàng Cơ Định
th́ bắt gặp đôi mắt đầy căm thù, c̣n
Hoàng Cơ Long đôi mắt long lên ṣng sọc.
V́ đây là trong
Ṭa, tôn trọng luật pháp, tôi kêu cảnh sát can thiệp,
Thê, Long bước nhanh ra khỏi pḥng xử. Định chối căi không có ra lệnh. Bà
Thụy Giao, chủ báo Xây Dựng đă mô tả rất
đầy đủ trên mặt báo về cái tṛ vũ phu, bạo lực, coi
thường pháp luật, của Mặt Trận, đă
đặt tên cho họ qua tựa đề “Chứng nào
tật ấy.”.
Ngày
cuối của phiên ṭa kéo dài đằng đẳng 14 ngày.
Phía nguyên đơn kéo nhau đến ṭa đông, thật
đông. Cả hai phía, đơn và bị
sẽ đọc bài biện hộ cuối cùng.
Luật sư Givens, Cao thế Dung
(tự biện hộ), và
luật sư Nguyễn Tâm, lần lượt đọc
bài biện hộ cuối cùng. Luật sư Givens khẳng
định trên thực tế, cả ba nguyên đơn
không có danh thơm ǵ mà mất, họ
chỉ là những kẻ xấu, gây ra đủ mọi
tội ác trong cộng đồng người Việt,
họ chỉ có xú danh.
Các bị đơn cũng không hề “cẩu
thả” hay “ác ư” mà thực sự tin tưởng những
điều đă viết hay phổ biến. Cao
thế Dung, Nguyễn Thanh Hoàng không hề viết sai sự
thực.
Luật sư Givens đ̣i bên nguyên đơn
phải đưa ra bằng chứng, phải chứng minh
v́ ba bài báo viết sai, cố t́nh vu oan, phỉ báng, khiến
các nguyên đơn bị mất danh tiếng, đau
ốm, sầu khổ. Thế nhưng, không những các
nguyên đơn không trưng ra được bằng
chứng là ba bài báo hoàn toàn sai, là cố t́nh vu oan, giáng
họa làm hại nguyên đơn, cả ba nguyên đơn
đâu có đau ốm, sầu khổ, v́ không trưng ra
được một giấy tờ hay hóa đơn
đi khám bác sĩ. Nữ kư giảø Thụy Giao
tường thuật rất trung thực y như bản văn (transcript) của Ṭa.
Ông Cao thế Dung, trong bài biện hộ, có câu nói
đi vào lịch sử cộng đồng hải
ngoại, “Sự thực là người biện hộ cho
tôi, công lư là quan ṭa của tôi”. (Truth is my defense, justice is my judge). Ông Dung
kết thúc bằng một câu làm cho không khí pḥng xử bớt
căng thẳng: “Merry Christmas and Happy New Year “.
Bài diễn văn biện hộ
của luật sư Nguyễn Tâm rất xuất sắc. Ông ôn
tồn tŕnh bày thảm cảnh của cộng đồng
người Việt phải sống dưới móng
vuốt, áp lực đen của Mặt Trận, như
đám mây đen che phủ kín, không thấy ánh mặt
Trời. Các bị đơn là những người can
đảm đứng lên dùng bút mực xuyên thủng
đám mây đen đó.
Ông Tâm mong rằng Bồi thẩm
đoàn có một biểu quyết lịch sử, xác
định các bị đơn không phạm lỗi ǵ.
Gần 5 giờ chiều, thẩm
phán Biafore yêu cầu các vị Bồi thẩm vào pḥng kín. Bản phán quyết (verdict) được
thẩm phán Biafore trao cho bà Lục sự.
Bà lục sự cao giọng tuyên đọc:
- “Các bị đơn, Cao thế Dung, Nguyễn
Thanh Hoàng và Nguyên Vũ đều được xác
định là “không hề có một lời nào sai trái”. (did not make any false statement) về phe nguyên
đơn.
Bà lục sự hắng giọng đọc to:
“Số phiếu là 11 trên 1.”.
Như vậy, phiên ṭa kết thúc với kết
quả như mọi người mong đợi, đó là
thế tất thắng của công lư, chính nghĩa thắng
hung tàn.
Nhưng c̣n những cái chết đầy nghi
vấn của kư giả Đạm Phong ở Houston,
của một
nhân viên ṭa báo VNTP trong vùng Virginia, cuộc ám sát
hụt ông Cao Thế Dung ở Maryland, và luật sư
Nguyễn văn Chức ở Houston, tiếp là vụ
thảm sát vợ chồng kư giả Lê Triết, mà cơ
quan an ninh đang ráo riết truy
tầm thủ phạm, với đầy đủ
bằng chứng rơ rệt, truy tố về h́nh tội.
Dư luận cộng đồng người Việt
hải ngoại cầu mong Lưới Trời Lồng
Lộng không cho bọn hèn
hạ, tham tàn trốn thoát, làm sạch sẽ, quang đăng
khí Trời cộng đồng.
Trên máy bay về lại
Mở cuốn 2, Hồi Kư Một Đời
Người của cụ Phạm Ngọc Lũy, tôi mang theo
để coi lại những điều giữa ông Hoàng
Cơ Minh và cụ Lũy, có thể dùng trong phiên ṭa, tôi
mở đến đoạn cụ Lũy phỏng vấn
ông Trần Minh Công, sau sự sụp đổ của
Mặt Trận.
Ông Công đă kết luận cuộc phỏng vấn :
1/ Làm việc nước mà
đầu óc và ḷng dạ không lớn, sẽ không làm
được.
2/ Cho dù một tổ chức có to
lớn và thành công đến đâu mà lănh đạo dở
cũng sẽ thất bại.
Tôi
cho rằng đó là một bài học tốt cho các bạn
trẻ sau này. Bài học này cũng đă
gây cho tôi nhiều cay đắng và phiền muộn.
Tôi rất thông
cảm với ư kiến của anh Trần Minh Công, tôi cám
ơn anh Công đă nêu lên những ư kiến xác
đáng, thâm tâm tôi cũng nghĩ đúng như anh.
Quay lại
chuyện ông Hoàng cơ Minh, cựu phó đề đốc Hải
Quân, tôi mường tượng ra một h́nh ảnh: Ông
cựu phó đề đốc đă tạo ra một con
tầu ma, con tầu bằng giấy mà những gia đ́nh
đặt ở hàng mă, cúng rồi đem đốt. Con
tầu ma không bao giờ được hạ ïthủy.
Trên con tầu, ông Minh có khoảng 40 - 50 tay chèo, toàn là những
thanh niên, trai tráng nhiệt thành. Con tầu ma, khi
được những tay chèo hay thủy thủ đoàn khiêng đến
một nơi khác, gặp lửa, chiếc tầu bị
cháy, hạm trưởng tới thủy thủ đoàn
đều bị chết gần hết, ngoài những
người nhanh chân nhẩy ra ngoài, nhưng cũng bị
phỏng nặng .
“Cửu
long giang, chưa qua mà vĩnh biệt
Chốn
biên thùy, ấp ủ nỗi ḷng đau.”
. .
. . .
. . .
. . .
Phạm
Văn Liễu
Hồi kư
Trả Ta Sông Núi