DI TẢN HUẾ THÁNG BA 1975
---------- Lâm Quang Thi ----------
Thân
gời anh Phạm Vũ Bằng
Trong e-mail anh
nói đă đọc quyển “Hai
Mươi Lăm Năm Thế Kỷ” xuẩt bản
năm 2005. (Tập hồi kư này là bản dịch quyển “The Twenty-Five Year Century” do Viện Đại Học University of
North Texas xuất bản năm 2002, nghĩa là 7 năm
trước khi viện đại học này xuất
bản tác phẩm “Hell in An Loc.” Tôi nghĩ rằng anh đă viết
bài “Những Người Lính Bị Bỏ Rôi” trước
khi anh đọc quyển “Hai Mươi Lăm Năm
Thế Kỷ” v́ quyển sách này có một chương
rất dài nói về sự sụp đổ VICT, và v́
thế có thể giài đáp những thắc mắc về
sự triệt thoái khỏi Huế và Đànẳng tháng 3,
1975. Tuy nhiên, tôi vẫn trả lời vắn
tắt sau đây những thắc mắc của các
đồng đội của anh để anh phổ
biến đến các anh em này.
Theo
tôi thấy th́ anh đă nêu lên những thắc mắc chánh
sau đây:
a). tại sao không rút lui theo QL1;
b) tại sao không có cây cầu nổi bắt qua
Cửa Tư Hiền và Hải Quân gập nhiều khó
khăn để bốc LĐ147 TQLC phía nam Thuận An và
c) tại sao không có sự yểm trợ
đầy đủ của Không Quân.
Về
điểm thứ nhứt, trong quyên “25 Năm Thế Kỷ”
(trang 476, 477), tôi đă có tường thuật rằng trong
đêm 22 tháng 3, Trung Đoàn 101 của SĐ325 BV, sau
nhiều đợt tấn công dữ dội, đă đánh
bật TD60 BDQ ra khỏi đồi 500 kế cận phía tây
QL1 và v́ thế địch quân đă kiểm soát
được hành lang Phú Lộc. Sau khi hay tin Đồi
500 đă rơi vào tay địch, tôi gọi Tướng
Trưởng và yêu cầu ông chỉ thị LĐ258TQLC
đóng phía bắc Đèo Hải Vân phối hợp với
LĐ15BĐQ để phản công tái chiếm Đồi
500 và giải toả QL1. (Lúc bấy giờ SĐ1BB bung ra
quá mỏng và không c̣n lực lượng trừ bị
để phản công). Tướng
Trưởng hứa sẽ nghiên cứu những ǵ có
thể làm được, nhưng cuối cùng cuộc
phản công, không rơ v́ lư do ǵ, đă không được
thực hiện. Và cũng v́ vậy cho nên Của
Tư Hiền và bải biển Thuận An
là đường lui quân duy nhất c̣n lại.
Kế hoặch
triệt thoái của tôi là SĐ1 sẽ di chuyển qua
ngả Tư Hiền và LĐ147 sẽ được lực
lượng đặc nhiệm HQ - do Ság̣n gởi ra
tăng cường QĐI và gồm nhiều chiếc
LST (Landing Ship, Tank) - bốc lên ở phía nam Thuận An.
Tôi nhấn mạnh với Tướng Trưởng
rằng sự triệt thoái SĐ1 chỉ có thể
thực hiện với hai điều kiện: (1) một
cây cầu nổi phải được bắt ngang
Đầm Của Tư Hiền và (2) Núi Vĩnh Phong, cao
điểm phía nam cửa Tư Hiền, phải do một
đơn vị TQLC chiếm đóng. Tướng
Trưởng hỏi ư kiến của BTM của ông và
họ cho là hai điều kiện này có thể thoả măn
được. Chiều ngày 23, Tướng
Trưởng họp với Tướng Lân, TL/SĐTQLC, Phó
Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, TL/HQVICT,
và trung tá chỉ huy trưởng Lữ Đoàn 10 Công
Binh. Ông Thoại bảo đảm với Tướng
Trưởng rằng ông sẽ cho đánh ch́m một chiếc
tàu HQ ở giữa Cửa Tư Hiền để cho
SĐ1 di qua và Tướng Lận cũng bảo
đảm rằng ông sẽ cho chiếm đóng các cao
điểm phía nam cửa Tư Hiền. Nhưng
cuối cùng hai nhiệm vụ này cũng không
được thực hiện, và điều này đă gây
nhiều tổn thất cho các đơn vị rút quân qua
ngả Tư Hiền.
Mặc
khác, rủi ro cho LĐ 147TQLC, các tàu LST của BTL/HQ tăng
cường cho QĐI gặp rất nhiều khó khăn
cặp bải để đón các anh em v́ biển
động, sống to và các bảỉ biển cạn. Mặc dầu vậy, phần lớn anh em
TQLC của LĐ147 đă được bốc về
Đà Nẳng trong những ngày 24, 25 và 26 tháng Ba.
Về điểm
LĐ147 TQLC không được KQ yểm trợ
đầy đủ, dó cũng là hậu quả của
việc Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự
cho QLVNCH. Thật vậy, ngày 4 tháng Tư, 1974, Quốc Hội
Hoa Kỳ, một lần nữa, cắt viện trợ
quân sự cho Nam Việt Nam từ 1 tỷ MK xuống c̣n 750
triệu MK cho tài khóa 1974-1975. Nhưng trong số 750
triệu MK này, 300 triệu dành để trả
lương cho nhân viên Văn Pḥng Tùy Viên Quân Lực Hoa
Kỳ ở Sàig̣n. Một điểm đáng
được lưu ư là Do Thái nhận được 2
tỷ rưỡi MK viện trợ quân sự trong trận
chiến ba tuần Yom Kippur năm 1973. Nói khác đi,
trong ṿng một năm, NVN nhận được 21% của
sự viện trợ Do Thái nhận được trong
ṿng ba tuần lễ.
Trong lúc các
đơn vỉ Lục Quân thiếu thốn trầm
trọng về xe vận tải và đạn dược
th́ Không Quân cũng rất thiếu thốn về nhiên
liệu và quân dụng thay thế; quân chũng này phải
cho nằm ụ tổng số là 224 phi cơ đủ
loại: chiến đấu cơ AD6, các phi cơ vận
tải C47, và C113. Trong lúc năm 1972, KQ có thể di
chuyển một trung đoàn từ Quân Khu này đến
Quân Khu khác, năm 1975 KQ chỉ có thể di chuyển vào
khoảng một tiểu đoàn mà thôi. Riêng
tại VICT, trực thăng khiển dụng chỉ có
thể chuyên chở một đại đội Bộ
Binh cùng một lúc. Cũng v́ thế cho nên không yểm
cho các đơn vị chạm địch cũng bị
hạn chế rất nhiều. Hơn
nữa, trong lúc các đơn vị Bắc Đèo Hải Vân
đang rút quân th́ hai tỉnh cực nam của VICT đang
bị tấn công nặng và có thể bị tràn ngập
bất cứ lúc nào. Do đó không yểm của
SĐ1 KQ ở Đà Nẳng, vốn đă bị hạn
chế, c̣n phải được xử dụng
để yểm trợ cho các đơn vị phía nam VCT.
* * * * *
Tôi hy vọng
những chi tiếc trên đây sẽ giài tỏa những
thắc mắc của anh em TQLC.
Trưóc
khi chấm dứt, tôi có đôi lời nhắn nhủ
với các chiến hữu. Nhân dịp này, tôi xin nhắc
lại lời nói của Tướng Charles De Gaulle của
Pháp trong kỳ Đệ II Thế Chiến. Sau khi rút
tàn quân Pháp qua Anh Quốc để chờ ngày trở
về giải phóng quê hương, Tướng De Gaulle tuyên
bố một câu bất hủ: “Nous avons perdu une bataille, mais nous n’avons pas
perdu la guerre” (Chúng ta đă thua
một trận đánh, nhưng chúng ta chưa thua cuộc
chiến tranh) Chúng ta cũng vậy; chúng ta đă
thua một trận đánh nắm 1975, nhưng cuộc
Chiến Tranh Việt Nam c̣n đang tiếp diễn duới
mọi h́nh thức. CSVN hiện nay đang
đứng trên bờ vực thẩm v́ chúng đang
phải đương đầu với những bế
tắc không lối thoát trên phuơng diện kinh tế và
chánh trị. V́ thê, nếu chúng ta tiếp tục
xử dụng quyền lực kinh tế và chánh trị càng
ngày càng tăng gia của Cộng Đồng VN Hải
Ngoại để gây ảnh hưởng có lợi cho
cuộc chiến đấu của chúng ta; nếu chúng ta
tiếp tục khai thác các phưong tiện truyền thông
hiện đại để khuyến khích và giúp
đở người dân trong nước đứng lên
đói quyền sống của ḿnh; nếu chúng ta tiếp
tục khuyến khích các thê hệ hậu duệ mạnh dạn
dấn thân vào hệ thống chánh trị các xứ tạm
dung để tiếng nói chúng ta càng ngày được
lắng nghe, th́ tôi tin chắc rằng cuộc Chiến Tranh Việt
Nam Thứ Hai, cuộc chiến tranh để đem
lại tự do, dân chủ, và nhân quyền cho quê
hương Việt Nam, cuộc chiến tranh này nhứt
định chúng ta sẽ thắng.
Lâm
Quang Thi