Tŕnh Tổng Thống… Tôi Quyết Định Theo T́nh H́nh.
Mũ Xanh Phạm Vũ Bằng
Hôm nay là ngày phủ
quốc kỳ cho Bác Sĩ Nguyễn Văn Thế, Y Sĩ
Trung Tá TĐT/TĐ Quân Y Thủy Quân lục Chiến Nam VN
trước năm 1975, Anh Thế mới qua đời ngày
2/21/11 vi biến chứng của một căn bệnh ngoài
da rất thông thường mà anh bị lây từ bệnh
nhân, tôi đến tiễn đưa và để chào
vĩnh biệt vị chỉ huy khả kính rồi sửa
soạn đi về...
Ra đến ngoài sân, tôi
gặp toán Hầu Kỳ TQLC quân phục rằn ri với
chiếc mũ xanh thân yêu, trong toán tôi gặp chị
Thiếu Tá Huy Lễ, chị nói với tôi “chờ tí nữa
Thiếu Tướng Tư Lệnh TQLC sắp đến.”
Tôi vô cùng ngạc nhiên v́ Thiếu Tướng TL ở
tận tiểu bang Texas, mới hai tuần trước ông
đă về đây thăm bệnh anh Thế, hôm nay ông
lại về để tiễn biệt, tôi chợt
nhớ đă 36 năm nay tôi chưa gặp ông nên vội
đứng lẫn trong đám đông mặc thường
phục để nh́n Tướng Tư Lệnh. Tôi không
phải chờ lâu, chừng 10 phút sau th́ ông đến,
vẫn dáng người thư sinh, bước đi tự
tin và cặp kính cố hữu, ông không thay đổi
nhiều chỉ trừ mái tóc màu đen bây giờ đă
nhuốm bụi thời gian! Tôi bồi hồi nh́n ông mà
cả một dĩ văng bi hùng tráng của Tháng Ba Gẫy Súng
tại Quân Khu I hiện về, cái kỷ niệm này
nhiều lần tôi đă cố quên đi để
được sống b́nh yên, nhưng không làm sao đẩy
được nó ra khỏi tâm trí …
Quân Khu I - Tháng 3/1975.
QK I là một vùng nằm
tại cực Bắc của miền Nam Tự Do, QK này bao
gồm 5 tỉnh và Thị Xă Đà Nẵng, các tỉnh
của QK I là: Phía Bắc đèo Hải Vân có tỉnh
Quảng Trị và Huế , phía Nam đèo có Thị Xă Đà
Nẵng, và các tỉnhQuảng Nam, Quảng Tín, Quảng
Ngăi. Nối liền Huế- Đà Nẵng là Quốc Lộ
1, song song với Biển Đông theo
hướng Bắc-Nam, đi qua các đèo Phước
Tượng, Phú Gia, Hải Vân. Bảo vệ QK I là Quân
Đoàn I gồm 4 sư đoàn: SĐ1, SĐ2, SĐ3,
SĐ/TQLC là SĐ Tổng Trừ Bị tăng phái cho
QĐI, SĐI Không Quân, Hải Quân Vùng I Duyên Hải. ngoài ra
c̣n có 4 Liên Đoàn Biệt Động Quân, các lực
lượng Địa Phương Quân, Nghĩa Quân,
Cảnh Sát, các Liên Đoàn, Tiểu Đoàn, Đại
Đội Chiến Xa, Pháo Binh, Biệt Cách Nhẩy Dù, Thám
Báo…Quân số của toàn thể QĐI có thể trên 2
trăm ngàn chiến sĩ dưới sự chỉ huy
của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng- Tư
Lệnh Quân Khu I.
V́ địa thế
đặc biệt của 2 tỉnh Quảng Trị-
Huế cách Đà Nẵng bởi đèo Phước
Tượng, đèo Phú Gia, đèo Hải Vân với 1 con
đường duy nhất để thông thương là
QL1, nên QĐI được chia ra:
-Quân Đoàn I Tiền
Phương, chỉ huy bởi Trung Tướng Lâm Quang Thi,
bảo vệ 2 tỉnh phía bắc Hải Vân là Quảng
Trị-Huế, bộ chỉ huy tọa lạc tại
Huế, lực lượng gồm có SĐ1BB với 4 trung
đoàn, LĐ147/TQLC với 4 tiểu đoàn tác chiến, 1
tiểu đoàn pháo binh, một đại đội
Viễn Thám, Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh, Liên Đoàn
14/BĐQ, các tiểu đoàn pháo binh hạng nặng,
địa phương quân, nghĩa quân…Đây là một
lực lượng hùng mạnh và thiện chiến
nhất của QĐI.
-Quân Đoàn I, chỉ huy
bởi Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư
Lệnh QĐI, bộ chỉ huy tọa lạc tại
Đà Nẵng, bảo vệ các tỉnh phía
-Quốc Lộ 1 là con
đường huyết mạch và duy nhất, nối
liền Huế-Đà Nẵng, theo hướng Bắc-Nam,
phía Đông sát với Biển Đông, phía Tây là núi Trường
Sơn, QL1 có một địa thế hiểm trở
rất dễ pḥng thủ và rất khó cho địch
tấn công, và được bảo vệ bởi một
lực lượng tinh nhuệ, phía Tây Bắc SĐ1BB,
giữa LĐ15/BĐQ, LĐ/258 TQLC(trong
đó có tôi), Nam LĐ468/TQLC.
Về t́nh
h́nh chiến sự tại QKI trước ngày 25/3/1975 th́
phải nói là yên tĩnh, đă không có một trận
đánh nào lớn hơn cấp trung đoàn, tuy nhiên
địch đă bám sát quân ta để chờ thời
cơ. Đại họa
đă xẩy ra vào ngày 25/3/75, khi QĐI quyết định
bỏ Huế- Quảng Trị để rút đạo quân
tiền phương về bảo vệ Đà Nẵng, và
Tướng Tư Lệnh Tiền Phương Lâm Quang Thi
quyết định (được sự chấp
thuận của Tướng Ngô Quang Trưởng), rút quân
bằng Hải Quân tại băi biển Thuận An, thay v́ lui
binh theo đội h́nh trên QL1v́ ông nghĩ rằng có một
trung đoàn VC cắt đứt QL1tại đồi 500,
Phú Lộc.
Tôi viết đoạn này
dựa theo hồi kư của những TQLC c̣n sống sót
từ pháp trường cát Thuận An năm xưa, các MX
Nguyễn Thành Trí, Phạm Cang, Phạm Văn Tiền, Cao
Xuân Huy... trong ngày 25/3/75 trên băi biển Thuận An, ngoài
gần 4000 TQLC của LĐ147/TQLC c̣n có lính bộ binh
của SĐI BB, Thiết Giáp, Địa Phương Quân,
Biệt Động Quân… V́ tôi là TQLC nên chỉ
viết ra những ǵ liên quan đến LĐ147 thôi.
Ngày 24/3/75 lúc 6 giờ
chiều các TQLC của LĐ147 được lệnh
bỏ lại vũ khí cộng đồng và đạn
dược cùng lương thực, mỗi quân nhân trang bị
nhẹ và gọn, đoạn chiến với quân CSBV,
đi bộ hỏa tốc trên 30 km từ Quảng Trị
đến điểm tập họp là băi biển
Thuận An, Huế, v́ tàu hải quân không chở
được các chiến cụ nặng, nên dọc
đường họ thấy vô số đại bác và
chiến xa của các đơn vị bộ binh vứt
đầy đường.
Ngày 25/3/75 lúc 8 giờ
tối, tất cả LĐ147 đă tập họp tại
băi biển Thuận An, ngoài khơi là một lực
lượng hải quân hùng hậu với nhiều LST(tàu lớn chở đươc nhiều
ngàn quân) và LCM(tàu đổ bộ có thể vào sát bờ
đón quân ra tàu lớn), nhưng không có một chiếc tàu
nào vào đón! LĐ147 được lệnh chờ và
chờ…Đại họa biến thành đại thảm
họa khi Tướng Tư Lệnh Tiền Phương
Lâm Quang Thi bỏ về Đà Nẵng ngày 25/3/75 (CTTCB trang
204-Hồ VK Thoại), như vậy, đạo quân
tiền phương bị bỏ rơi trên băi biển
Thuận An đă mất đi cấp chỉ huy tối cao,
cấp QĐ có thẩm quyền điều động
Không và Hải Quân. Buổi chiều cùng ngày quân truy kích VC
đuổi kịp, chúng chiếm các đồi cao, bao vây
LĐ147 trên băi cát trống trải, tấn công TQLC bằng
đủ loại súng cộng đồng tối tân. Sáng
ngày 26/3/75 có 1 chiếc LCU duy nhất vào đón
được bộ chỉ huy LĐ147, thương binh,
và chừng 200 TQLC. Quân VC càng ngày càng đến đông
hơn để tấn công TQLC trên băi cát, TQLC th́ hết
đạn, hết nước uống, hết lương
thực, ngoài khơi các tàu hải quân vẫn vô cảm,
không tiếp tế, không yểm trợ hỏa lực, im
lặng vô tuyến. Sư Đoàn 1 Không Quân lúc đó c̣n
nguyên vẹn nhưng đă đi đâu mà không có 1 chiếc
phi cơ nào đến tiếp tế hay yểm trợ
hỏa lực! Tối ngày 26/3/75, TQLC đă chiến
đấu đến viên đạn và giọt máu cuối
cùng, không chấp nhận đầu hàng hay bị bắt
nên đă có rất nhiều TQLC tự sát tập thể
bằng lựu đạn M26 và chuyện phải
đến là rạng sáng ngày 27/3/75 thành phần c̣n lại
của LĐ147/TQLC bị bắt. Trên đây chỉ là
số phận của LĐ147 TQLC, số phận của
các đơn vị khác thuộc Lực Lượng
Tiền Phương QĐI chắc cũng không khá hơn,
chỉ biết rằng cho đến ngày 27/3/75 toàn thể
lực lượng Tiền Phương này đă tan,
đây là nguyên nhân chính đưa đến sự tan
ră QĐI hai ngày sau.
Có một điều làm
tôi thắc mắc cho đến bây giờ là nếu các
cấp lănh đạo QĐI muốn rút đạo quân
Tiền Phương này về để bảo vệ
Đà Nẵng th́ phải rút theo đội h́nh trên QL1
như vậy th́ mới có thể mang về Đà Nẵng
những thiết đoàn chiến xa và những tiểu
đoàn pháo binh, những vũ khí cộng đồng v.v.. rất cần thiết cho sự pḥng
thủ, rút bằng Hải Quân nếu may mắn th́ chỉ
mang được quân thôi, c̣n chiến cụ nặng th́
phải bỏ lại. Khi tôi bàn luận về cái lẽ
hơn thua giữa ta và địch trên đoạn QL1
Huế-Đà Nẳng với Đại Tá Nguyễn Năng
Bảo Lữ Đoàn Trưởng LĐ258/TQLC là LĐ có
trọng trách bảo vệ đoạn QL1 này th́
được ông cho biết rằng địa thế
của đoạn đường này hiểm trở,
dễ thủ mà khó công, phía Đông QL1 là biển nên
địch chỉ có thể tấn công từ phía Tây QL, mà
phía Tây QL th́ đă có quân tinh nhuệ của ta đóng
chốt săn, hơn nữa đạo quân Tiền
Phương QĐI rất thiện chiến và quen thuộc
địa thế vùng này nên 1 trung đoàn địch
sẽ không thể cản được, nếu ta may
mắn dụ được chúng dùng nhiều sư
đoàn để tấn công, th́ đây sẽ là chiến
trường quyết định tại QKI mà địa
thế do ta lựa chọn, có lợi cho ta pḥng thủ,
bất lợi cho địch tấn công, hơn nữa địa
điểm này xa với thành phố, ít dân, nên quân ta sẽ
không bận tâm về dân nên có thể xử dụng hỏa
lực tối đa mà không sợ sát hại thường
dân. C̣n địch th́ sẽ không thể dùng
dân vô tội để ẩn nấp, lấy lương
thực và tin tức t́nh báo. Ta đang làm chủ trên
trời và dưới biển, với sự tiếp
tế dồi dào và hải pháo của Hải Quân, với
hỏa lực khủng khiếp của Không Quân và những
chốt của quân ta tại phía Tây QL, địch sẽ
bị phản công mọi mặt, và phần thắng
sẽ về quân ta. Ông cũng khẳng định
đoạn QL1 Huế-Đà Nẵng cho đến ngày 25/3/75
trước khi TQLC và BĐQ được lệnh rút
đi vẫn an toàn.
Tôi cũng đă
điện đàm với Thiếu Tướng Bùi Thế
Lân TL/TQLC và Đ/Úy Nguyễn Quang Đan, Chánh Văn Pḥng
Tướng TL, để hỏi về cái lệnh hành quân lui
binh của LĐ 147/TQLC tại Thuận An ngày 25/3/75.
-Theo Thiếu Tướng
TL, ông biết sẽ có cuộc lui binh của đạo
quân Tiền Phương trong đó có LĐ 147/TQLC, nhưng
v́ LĐ147 đă được tăng phái cho QĐI
Tiền Phương nên ông không có quyền điều
động và hoàn toàn không biết đến kế
hoạch rút quân cho đến khi Đ/Úy Đan tŕnh lên ông
bản sao của lệnh hành quân lui binh đă
được Trung Tướng Ngô Quang Trưởng kư
chấp thuận mà không tham khảo ư kiến nên ông hoàn toàn
bị bất ngờ và khi đọc lệnh hành quân này,
ông thấy có nhiều sơ hở nguy hiểm có thể
đưa đến sự tan ră toàn diện của
đạo quân tiền phương, ông đă gọi Trung
Tướng Ngô Q. Trưởng để yêu cầu hoăn
lại cuộc lui binh, nhưng không kịp v́ cuộc lui
binh đang tiến hành.
-Theo hồi kư của
Đại Tá Nguyễn Thành Trí, lúc đó là Tư Lệnh
mặt trận Tây Bắc Huế thuộc đạo quân
Tiền Phương QĐI, th́ lệnh hành quân lui binh này
được soạn thảo bởi Trung Tướng Lâm
Quang Thi tại Thuận An vào trưa ngày 24/3/75 và
được Đại Tá Lê Ngọc Hy, Tham Mưu Trưởng
QĐI TP mang về Đà Nẵng tŕnh cho Trung Tướng
Ngô Quang Trưởng TL QĐI, được Tướng
Trưởng kư chấp thuận lúc 5 giờ 30
chiều 24/3/75.(TT2 TQLC trang 537-538)
-Theo Đ/Úy Nguyễn Quang
Đan th́ vào một buổi sáng tháng Ba, anh không nhớ ngày,
(theo tôi th́ có lẽ là sáng 25/3/75) anh nhận được
bản sao của lệnh hành quân triệt thoái QĐI
Tiền Phương đă được Tướng
Trưởng kư, anh vội vă đưa cho Tướng Lân,
đọc xong ông than: “ĐM thế này th́ chết lính tao
rồi!”, sau đó ông ra lệnh cho anh bay ra Thuân An
đưa cho Đại Tá Nguyễn Thế Lương
LĐT/LĐ147 một lá thư kèm theo lời dặn “T́m ra
QL1 mà đi” rồi Tướng TL đi thẳng lên Trung Tâm
Hành Quân Sư Đoàn. Tiếc thay Đ/Tá
Lương đă không nghe lời.
Ngoài ra tôi c̣n
được biết trong khi LĐ147/TQLC vị vây hăm
tại băi biển Thuận An, v́ chỉ là Tư Lệnh
của một sư đoàn tăng phái cho QĐI,
Tướng Lân không có quyền điều động
hải-lục-không quân của QĐI để tiếp
cứu LĐ147/TQLC, quyền này nằm trong tay của Trung
Tướng Ngô Quang Trưởng, TL QĐI và Trung
Tướng Lâm Quang Thi, TLP QĐI, nhưng hai vị
tướng này đă không làm ǵ để cứu
đạo quân Tiền Phương bị bỏ rơi này.
Quốc Lộ 1 Huế- Đà Nẵng,Tháng 3-1975.
Ngày 18/3/75, Lữ Đoàn
258 TQLC của Đại Tá Nguyễn Năng Bảo di
chuyển từ Quảng Trị tới đèo Phước
Tượng, nằm giữa Huế-Đà Nẵng với
nhiệm vụ rơ ràng:
-Bảo vệ lưu thông
trên QL1.
-Chờ đợi và
bảo vệ đạo quân Tiền Phương QĐI rút
từ Huế-Quảng Trị về Đà Nẵng.
Tôi đă có
mặt tại LĐ này với nhiệm vụ Y Sĩ
điều trị của ĐĐ Quân Y 258. Từ ngày 18/3/75 đến ngày 23/3/75 dân
tị nạn Huế, Quảng Trị đi đầy
đường chạy về Đà Nẵng, CSBV muốn
tái diễn một Đại Lộ Kinh Hoàng năm 1972,
nhưng thất bại v́ phía Tây QL có quân ta bố trí, chúng
không thể xông tới gần QL dùng súng bắn thẳng tàn
sát dân, chúng chỉ dùng đại bác đặt trong núi
Trường Sơn bắn vào dân tị nạn, nhưng
đa số đạn đại bác đă nổ trên vách
núi hai bên QL.Từ ngày 23,24/3/75, có thể t́nh báo của chúng
biết rằng Quân Đoàn I Tiền Phương sẽ rút
về Đà Nẵng và có thể chúng không có đủ quân
để ngăn chận, chúng chơi tṛ “rung cây nhát
khỉ, khua trống gơ mơ” bằng cách mang những
đơn vị nhỏ của chúng liều mạng
đánh vào tuyến pḥng thủ của các đơn vị
ta, chúng bị đánh bại nhanh chóng, bỏ trốn vào
trong núi phía Tây, tuy nhiên đài phát thanh của chúng lại rêu
rao là đă “diệt gọn” LĐ258/TQLC và LĐ15/BĐQ, và
đang kiểm soát đèo Phước Tượng. Đau
đớn cho quân ta, đ̣n tâm lư tuyên truyền này đă
thành công! Quân ta đă bỏ khế hoạch lui binh trên QL1
để rút lui bằng Hải Quân theo
ngả Thuận An, và đại thảm họa đă
xẩy ra như nói ở trên. Ôi! Mấy ngàn năm
trước, Tôn Tử đă nói: “Binh là cái đạo
dối trá” mà đau đớn thay, địch th́ quá gian
dối c̣n ta lại quá thật thà!
Sáng ngày 25/3/75 LĐ 258 TQLC được
lệnh của Trung Tướng Tư Lệnh QĐI Ngô
Quang Trưởng bỏ đèo Phước Tượng rút
về Đà Nẵng, LĐ15/BĐQ (đóng bên cạnh LĐ258TQLC)
chia làm hai, một phần đi hướng Bắc về
Huế an toàn, c̣n một phần đi theo TQLC về phía
Nam, đi qua Phú Lộc chúng tôi không thấy một tên VC nào
mà chỉ thấy một cánh quân của LĐ 468 TQLC
chỉ huy bởi Thiếu Tá Trần Quang Duật, bạn
tôi! Sau khi qua Phú Lộc, chúng tôi được xe Quân Vận chở về Đà Nẵng an
toàn cùng ngày…
Đà Nẵng, Tháng 3-1975.
Chúng tôi về đến
Đà Nẵng khoảng 8 giờ tối 25/3/75, Đà
Nẵng là nơi phồn hoa đô hội mà trong những
ngày tháng hành quân dài tại rừng núi của tỉnh Quảng
Trị, tôi chỉ mơ ước có được
một lần trở về, dù cho chỉ vài giờ
để thưởng thức một ly café thơm
ngọt và ngắm các cô hàng café xinh đẹp, thành phố
trong mộng của tôi th́ nay đang chết! Nhà cháy, xe cháy, khói lửa bao chùm thành phố.
Dưới ḷng đường, trên hè phố la liệt
người tị nạn không một mảnh chiếu
để nằm! Tôi đă về đây trong cảnh hoang
tàn đổ nát của thành phố thương yêu,
hương vị thơm ngọt
của café th́ chẳng được nếm mà chỉ có
vị cay đắng của hai ḍng nước mắt
đau thương!
Sáng ngày 26/3/75, tôi
được lệnh chỉ huy một toán QY để
yểm trợ cho một đơn vị TQLC đánh
chiếm lại đèo Phước Tượng,
đến trưa th́ lệnh này bị hủy bỏ, tôi
nhận được lệnh khác, mang y tá và xe cứu
thương ra bến Thương Cảng Đà Nẵng
để đón quân của LĐ147/TQLC. Cả một
LĐ gần 4000 quân mà bây giờ chỉ về
được trên một chiếc LCU duy nhất, gồm
Bộ Chỉ Huy LĐ, khoảng 100 thương binh trong
đó có Đại Tá Nguyễn Thế Lương, và
khoảng 200 binh sĩ, nh́n thấy họ tôi mới
thấm thía câu nói của người xưa “chán
chường như lũ tàn binh ĺa thành”.
Trong cuốn
hồi kư “25 Năm Thế Kỷ” Trung Tướng Lâm Quang
Thi có viết 90/100 TQLC của LĐ147 đă về
được Đà Nẵng, điều này sai với
sự thật. Ngày 27/3/75, tôi
lên Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn gặp Thiếu Tá Trần
Vệ, Trung Tâm Trưởng Hành Quân Sư Đoàn th́
được biết nhiều tin xấu: Toàn bộ
LĐ 147/TQLC đă bị địch bắt và đạo
quân Tiền Phương đă hoàn toàn tan ră. Quảng
Ngải đă thất thủ và cuộc lui binh của
SĐ2BB xẩy ra trong hỗn loạn (mặc dù không có
trận đánh lớn nào) chỉ có một nửa SĐ2BB
về được Đà Nẵng. Bộ Tư Lệnh
QĐI tại Đà Năng bị bỏ trống, Thiếu
Tá Trần Vệ gọi QĐI không ai trả lời, anh
phải đích thân lên QĐ th́ không thấy một bóng
người. Như vậy tính tới ngày 27/3/75, lănh
thổ QKI chỉ c̣n có Thị Xă Đà Nẵng. Ta đă
mất gần hết QKI mà không có một trận đánh
lớn cấp trung đoàn nào! Tôi đau
đớn, buồn rầu, lo lắng trở vê tiểu
đoàn Quân Y.
Sáng ngày 28/3/75, tôi
được gọi tŕnh diện Y Sĩ Trung Tá Nguyễn
Văn Thế, TĐ Trưởng TĐ Quân Y SĐ/TQLC, anh
Thế mặt mũi bơ phờ lo lắng, trên bàn anh là
tập hồ sơ quân bạ của tôi, anh than phiền là
Bệnh Viện Quân Y Dă chiến của SĐ/TQLC tại
phi trường Non Nước đă quá tải, số
thương binh đă gần gấp đôi sức chứa
của bệnh viện mà QĐI không cho phương
tiện để tản thương về BV Lê Hữu
Sanh, Thủ Đức, nếu có đụng trận th́
sẽ không có chỗ cho thương binh, anh hỏi vê chuyên
khoa của tôi, khi biết rằng tôi đă theo thầy
Nguyễn Phước Đại hai năm để
học vể giải phẫu xương với tư cách
nội trú ủy nhiệm tại Bệnh Viện Đô
Thành th́ anh rất vui vẻ rủ tôi đi khám bệnh cho
Đại Tá Nguyễn Thế Lương, LĐT/LĐ147TQLC,
Đại Tá Lương bị thương tại
Thuận An v́ miểng hỏa tiễn tầm nhiệt AT3
tại đầu gối phải, vết thương
sạch sẽ và đă được khâu cẩn thận,
có điều miểng đạn th́ chưa
được lấy ra được v́ nó nằm
cạnh dây thần kinh và động mạch quan trọng,
khi anh Thế hỏi ư kiến th́ tôi đề nghị nên
tăng lượng trụ sinh tối đa để
ngừa nhiễm trùng xương và tôi có thể lấy
miểng đạn ra nếu có đủ dụng cụ, anh
Thế vui vẻ và ra lệnh:
-Từ nay ĐT
Lương là bệnh nhân của toi (anh Thế tốt
nghiệp trường trung học pháp Jean Jacques Rousseau nên
có thói quen gọi chúng tôi là toi, xưng moi), c̣n số
bệnh nhân hiện tại của toi, moi sẽ bàn giao cho
bác sĩ khác. Tôi quay qua Đại Tá Lương an ủi:
-ĐT yên tâm, tôi sẽ
lấy miểng đạn ra an toàn,
nếu cần ǵ xin ĐT cho tôi biết.
Tôi đề nghị
với anh Thế:
-Xin Trung Tá
liên lạc với Tổng Y Viện Duy Tân, mượn pḥng
mổ để tôi mổ càng sớm càng tốt, v́
để lâu không ổn, có thể bị nhiễm trùng
xương th́ ḿnh phải cưa chân. Anh Thế lắc đầu buồn bă:
-Moi mới liên lạc khi
sáng, họ cũng quá tải như ḿnh, họ đề
nghị Bệnh Viện Hải Quân Cam Ranh.
Chiều ngày 28/3/75, lúc
khoảng 6 giờ 30 chiều, Đại Úy Nguyễn
Quang Đan lái xe đến TĐ Quân Y đón tôi ra sân
trực thăng của SĐ, tại đây tôi thấy anh
Thế đang đứng với Thiếu Tướng
Tư Lệnh TQLC Bùi Thế Lân, ĐT Lương th́
ngồi dưới đất, tôi chưa kịp chào th́ anh
Thế đă tiến tới ra lệnh:
-Toi mang ĐT Lương
quá giang tàu hải quân đến Bệnh Viện Hải
Quân Cam Ranh để mổ, c̣n moi th́ phải đi họp
để xin hải quân cung cấp một chuyến tàu di
tản thương binh của ḿnh về Saigon hay Vũng
Tàu.
Tôi không biết nói ǵ,
chỉ đi theo đoàn người lên
trực thăng, tại hai bên cửa trực thăng tôi
thấy mấy người nhái của TQLC cùng đi. Trực
thăng bay chừng 15 phút th́ đáp xuống Bộ Tư
Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, tại đây có
sẵn 2 trực thăng đang đậu ,khi máy trực
thăng vừa tắt, tôi nghe được tiếng ôn ào
của nhiều ngàn người dân tị nạn đang
chờ tàu trên khoảng đất trống kế bên băi
đáp trực thăng, một sĩ quan Hải Quân dáng
điệu nhu ḿ lễ phép tiến ra chào Thiếu
Tướng Tư Lệnh TQLC, anh nói Trung Tướng
Trưởng mới đến, tay chỉ chiếc
trực thăng bên cạnh, c̣n Phó Đề Đốc
Thoại th́ đang bận họp, sau đó anh hướng
dẫn chúng tôi vào một bunker bên cạnh sân cờ, cái
bunker này được xây bằng nhiều lớp bao cát
kiên cố, bên trong có một cái bàn dài và quanh bàn là một
hàng ghế c̣n bỏ trống, tại góc pḥng có mấy chiếc
điện thoại, đây là TOC Hành Quân của Hải
Quân, có lẽ chúng tôi đến sớm nên chưa có ai mà chỉ
có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đang đứng
chờ. Hai vị tướng trao đổi chuyện
với nhau một lúc rồi cả hai đi về phía
mấy cái điện thoại, trong lúc hai ông tướng
loay hoay bên máy điện thoại, tôi thấy Phó Đề
Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại cùng mấy sĩ
quan Hải Quân bước vào pḥng, tướng Thoại
bước đến bên Tướng Trưởng…
Tướng Trưởng bốc máy điện thoại
thứ nhất gọi mấy lân mà không được, ông
dùng máy thứ hai th́ có người trả lời, ông nói
chuyện với người trong máy một lúc lâu, nét
mặt lo âu, tôi cũng đứng trong pḥng nhưng v́ phép
lịch sự nên không nghe và cũng không muốn t́m hiểu
người bên kia đầu dây là ai, cho đến khi
Đại Tá Lương, ngồi dưới đất,
gần chỗ Tướng Trưởng đang nói
điện thoại, lên cơn đau và cầu cứu, tôi
đi tới đưa thuốc th́ cũng là lúc tôi nghe
tướng Trưởng nói từng câu rơ ràng với
người bên kia máy:
-Tŕnh Tổng Thống, tôi
quyết định theo t́nh h́nh.
Nói xong, Tướng
Trưởng cúp máy, ông đi qua lại trong pḥng, đăm
chiêu suy nghĩ một lúc rồi ghé tai Tướng Lân nói
thầm mấy câu làm ông tướng này cũng đăm
chiêu suy nghĩ buồn bă không kém*. Một
lát sau Tướng Lân quay qua nhắc Tướng
Trưởng là phải mời Tướng Hinh, Tư
Lệnh SĐ3BB đến họp.
(*Trong bữa ăn tối
ngày 25/2/2011 do Y Sĩ Thiếu Tá Tường,
TĐP/TĐQY/TQLC khoản đăi tại Little Saigon, tôi
gặp lại Thiếu Tướng Bùi Thế Lân và may
mắn đă được ông giải đáp những
thắc mắc của tôi từ 36 năm nay trong câu trả
lời của Tướng Trưởng với Tổng Thống.
Thiếu Tướng Lân cho tôi biết người mà
Tướng Trưởng nói chuyện điện thoại
với tối hôm 28/3/75 là Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu. Tướng Lân xác nhận câu nói “Tŕnh Tổng
Thống, tôi quyết định theo t́nh
h́nh” và Tướng Trưởng đă nói thầm vào tai ông:
“Ḿnh rút đêm nay”. Thiếu Tướng Tư Lệnh TQLC
c̣n cho biết: “Ông ấy bối rối đến nỗi
quên cả mời Tướng Hinh, SĐ3BB, tôi phải
nhắc ông ta, khi Tướng Hinh đến để
nhận lệnh bỏ Đà Nẵng trong đêm th́ ông xin
Tướng Trưởng cho 4 ngày đễ sửa
soạn nhưng bị từ chối”. Tướng Lân nói
tiếp: “Sự thực th́ đây không phải là một
phiên họp, các tướng được gọi
đến để nhận lệnh bỏ Đà Nẵng
chứ không có bàn căi ǵ hết”. Tôi nghĩ Thiếu
Tướng Lân rất có lư v́ dọn nhà th́ cũng phải
cần mấy ngày, c̣n dọn cả một QĐI “ngay
đêm nay” th́ c̣n có ǵ để bàn căi, chỉ có nước
“bỏ của chạy lấy người” mà” tự thoát”,
vậy th́ “buổi họp” nầy không cần thiết,
thay vào đó Tướng Trưởng chỉ cần dùng
điện thoại ra lệnh, như vậy th́ ông đă
tránh cho những tướng dưới quyền những
nguy hiểm mà tôi sẽ kể sau. Một
điều tôi không thể hiểu được là
tại sao Tướng Trưởng lại phải vội
vă như vậy để gây ra thảm kịch ngày 29/3/75
tại Đà Nẵng? Đại quân của địch
th́ chưa thấy, trong thành phố Đà Nẵng chỉ có
đặc công và tiền sát Pháo Binh địch trà trộn
trong dân tị nạn, chúng chỉ có khả năng pháo kích
quấy rối).
Tôi chợt nhớ
nhiệm vụ của tôi là t́m tàu hải quân mang ĐT
Lương đến Cam Ranh để mổ vết
thương cho ông nên vội bỏ pḥng họp đi ra
cầu tàu để t́m tàu, tại đây tôi chỉ
thấy cảnh “bờ trơ cơi vắng nước c̣n
tăm không” trong ánh trăng phản chiếu sóng biển ŕ
rầm, tàu th́ chẳng có mà người cũng không! Tôi
đi ngược lại căn cứ hải quân vắng
tanh, chẳng thấy một quân nhân hải quân nào, căn
cứ này có lẽ đă bị bỏ trống.
Trở lại băi trực
thăng, nh́n qua hàng rào, tôi thấy nhiều ngàn dân tị
nạn chen chúc nhau trên băi đất trống, chỉ cách
hầm TOC Hải Quân, nơi các tướng sẽ họp
khoảng 100m, tôi rùng ḿnh tự hỏi trong số
người này có bao nhiêu đặc công và tiền sát pháo
binh địch trà trộn? Theo ánh đèn vàng, tôi t́m
đến bệnh xá hải quân th́ gặp một ông Trung
Sĩ y tá, thấy tôi là bác sĩ ông vội đứng
nghiêm chào kính, tôi được biết người
chỉ huy bệnh xá là bác sĩ Phước, bạn tôi,
nhưng bác sĩ Phước mới ra ngoài nên tôi phải
chờ, khi ông Trung Sĩ biết tôi đang t́m tàu để
về Cam Ranh th́ ông nh́n trước nh́n sau rồi ghé tai tôi
nói:
- Lúc 5 giờ chiều
cả căn cứ đă bỏ đi gần hết,
chỉ c̣n một số người Phó Đề
Đốc chỉ định ở lại, hiện
giờ không có chiếc tàu nào, chiếc cuối cùng đă
chở ông Lănh Sư Mỹ đi rồi.
Tôi nhắc ông trung sĩ
phải sẵn sàng súng ống v́ mấy ông tướng
đến họp có thể lôi kéo bọn đặc công VC
tấn công căn cứ. Ngồi chờ một lúc, tôi nghe
thấy nhiều tiếng trực thăng lên xuống nên
vội đi trở lại hầm TOC, tôi thấy
Đại Úy Đan, b́nh thường không bao giờ đeo
súng, hôm nay anh đeo một khẩu tiểu liên Uzi bên hông,
dáng điệu nghiêm trọng, tôi chợt nghĩ
đến bữa tiệc “Hồng Môn”(Trên 4000 năm
trước, thời Hán-Sở tranh hùng bên Tàu, Sở Bá
Vương đă mở bữa tiệc tên là Hồng Môn
mời Hán Đế Vương đến dự
để giết đi, việc không thành v́ Hán Đế
Vương đă đề pḥng trước) nên vội
kiểm soát lại khẩu Colt 45 bên hông, nạp một viên
đạn lên ṇng rồi bước vào pḥng họp.
Trong pḥng lúc nay đă
đầy người, Tướng Trưởng ngồi
đầu bàn, bên phải là Tướng Thoại, phía bên
trái là Tướng Lân, kế bên là Tướng Hinh, sau chót
là Trung Tướng Lâm Quang Thi, bên hàng ghế đối
diện, cạnh Tướng Thoại là mấy vị
sĩ quan hải quân và bộ binh, v́ họ ngồi xoay
lưng về phía tôi nên không nhận diện
được. Vô t́nh tôi lại đứng đối
diện với Tướng Thi, ông to lớn, tôi nhận ra
ông v́ bảng tên trên ngực áo bên phải, bên trái phía trên
trái tim là một huy hiệu nắm đấm với
mấy chấm phía trên, đứng sau ông là một sĩ
quan cận vệ cũng to con không kém và cũng đeo huy
hiệu nắm đấm bên trái, như vậy th́
Tướng Thi là một cao thủ vơ lâm khiến tôi càng
chăm chú nh́n trong đầu tự hỏi ông là Tư
Lệnh Phó QĐI, tại sao không ngồi cạnh
Tướng Trưởng để chủ tọa cuộc
họp mà lại ngồi tận cuối bàn với dáng
điệu bồn chồn bối rối? Tướng
Hinh th́ đang “mặc cả” với Tướng
Trưởng từng giờ để cố cứu
SĐ3BB.
V́ thấy mọi việc
tốt đẹp, tôi bước khỏi pḥng họp lúc 8
giờ 40 tối th́ được biết anh em
người nhái TQLC đă mang ĐT Lương qua cái bunker
bên cạnh, tôi qua thăm, cho ông biết không có tàu về Cam
Ranh. Sau đó tôi ra băi trực thăng ngồi
chờ. Chưa hút hết nửa điếu
thuốc, tôi thấy một tia lửa
bùng lên giữa đám dân tị nạn trên mảnh
đất trống cạnh băi trực thăng, trong ánh
lửa màu cam tôi thấy thân người và nhưng phần
cơ thể tung lên, tiếp theo là một tiếng nổ
đinh tai. Theo phản ứng của một chiến binh,
tôi nằm sát mặt đất, địch bắt
đầu pháo kích lúc 9 giờ tối, nhịp độ
3-4 trái một phút, v́ đă quen với chiến trận tôi
nhận ra tiếng nổ quen thuộc của đạn
đại bác 130 ly, nhưng không nghe thấy tiếng depart,
đa số đạn nổ trên khoảng đất
trống chỗ dân tị nạn. Giữa những
tiếng nổ, tôi nghe tiến lẻng kẻng của
mảnh đạn va chạm vào mái tole,
và tiếng kêu khóc của dân tị nạn, h́nh như
tiền sát viên VC ở đâu đây. Tôi thấy đạn
đại bác từ từ kéo vào bên trong căn cứ, và
chính xác, một trái đạn nổ ngay băi trực
thăng, làm hai trực thăng của Tướng Lân và
Tướng Trưởng xẹt lửa, khoảng 10
giờ 30 tối, cường độ pháo kích tự nhiên
giảm xuống, đạn pháo rơi tản mác ngoài
căn cứ, theo người nhái TQLC Nguyễn Bác Ái th́
địch đặt pháo tại hường đèo
Hải Vân v́ anh thấy những tia lửa nháng ra từ
phía đó và lư do địch giảm pháo kích v́ ta bắn
chết một và bắt sống hai tiền sát VC.
Khoảng 10 giờ 40
tối tôi thấy Trung Tướng Lâm Quang Thi cùng một
sĩ quan Hải Quân đi vội vă ra băi trực thăng,
lên một trực thăng cuối băi, chiếc trực
thăng bay lên rất nhanh ra khỏi căn cứ, sau này tôi
được biết ông bay ra Soái Hạm HQ5, như
vậy ông là vị tướng thứ hai rời Đà
Nẵng bằng máy bay, vị đầu tiên là Thiếu
Tướng Hoàng Văn Lạc, TLP/QĐI xin đi về
Saigon ngày 26/3/75 rồi không trở lại (CTTCB, trang 273-274,
Hồ VK Thoại). Các tướng khác đều phải
lội ra chiến hạm sáng ngày 29/3/75 ngoại trừ
Tướng Điềm của SĐI/BB bị tử
nạn.
Băi đất trống bên
cạnh bây giờ vắng tanh, không thấy một
người tị nạn nào, nh́n vào căn cứ HQ tôi
thấy khoảng 20 người binh sĩ và sĩ quan HQ
đang tụ tập bàn tán quanh Tướng Thoại,
như vậy th́ cả căn cứ chỉ c̣n ngần
ấy người, bên TQLC th́ có khoảng 10 người,
tôi nh́n về phía cột cờ th́ thấy Trung Tướng
Ngô Quang Trưởng, dáng đứng xiêu đổ lặng
lẽ hút thuốc lá, trông ông như người vừa thua
một canh bạc cháy túi! Thấy ông không mũ sắt,
không đeo súng như mọi lần trong khi pháo của
địch đang rải rác rơi, tôi nói một
người sĩ quan bộ binh đứng bên cạnh
trở lại pḥng họp lấy cho ông mũ sắt.
Bấy giờ, tất
cả chúng tôi đều biết địch chỉ
tạm thời giảm pháo kích, chắc chắn chúng sẽ
pháo kích trở lại và có thể tấn công căn cứ
bằng đặc công, chúng đă biết trong căn
cứ có nhiều tướng lănh v́ có nhiều trực
thăng lên xuống và rất có thể tiền sát viên
của chúng đă báo cáo (một tên tiền sát bị phát
giác cùng với đầy đủ máy truyền tin trong
căn cứ chỉ cách pḥng họp chưa đến 50m).
Nơi an toàn nhất bây giờ có lẽ là căn cứ Non
Nước của TQLC và chúng tôi sửa soạn đi
về, hai anh phi công leo lên trực thăng của
Tướng Lân, loay hoay một lúc rồi chạy xuống
báo cáo, Đ/Úy Đan leo lên trực thăng đề máy
mấy lần không được, th́ ra trực thăng
đă bị hư v́ miểng đạn pháo, trực
thăng của Tướng Trưởng cũng cùng số
phận.
Chúng tôi lại nhận thêm
hai tin xấu nữa, đó là chiếc xe duy nhất của
Thiếu Tướng Lân đă bị trúng đạn pháo
không chạy được và chiếc tàu dành cho
Tướng Thoại chở tên Lănh Sự Mỹ đi lúc
chiều rồi không trở lại, ngoài cầu tàu th́ không
có một chiếc tàu nào, vậy là chúng tôi đă hết
đường về BTL/SĐ tại căn cứ Non
Nước.
Đang tuyệt vọng
th́ khoảng 11 giờ đêm một chiếc trực
thăng không biết từ đâu xà xuống, chúng tôi đă
tưởng có cứu tinh th́ thấy Tướng
Trưởng và người tùy viên leo lên, rồi trực
thăng vội vă cất cánh, thế là chưa kịp
mừng th́ …!!!
Bây giờ nếu gọi
TQLC từ căn cứ Non Nước đến đón là điều
không tưởng, với t́nh trạng kẹt
đường v́ người tị nạn th́ TQLC chỉ
có cách chạy bộ tới đây như vậy phải
mất mấy giờ th́ đă quá trễ v́ nơi đây
đang là một trái bom nổ chậm. Tướng
Thoại đi qua lại kiểm soát các pḥng trong căn
cứ, sau đó ông vào pḥng truyền tin, một lúc sau
bước ra mặt buồn hiu, ông cùng với các sĩ
quan Hải Quân đứng bàn bạc một lúc rồi
họ quyết định bỏ căn cứ, TQLC chúng tôi
không c̣n lựa chọn nào khác, phải đi theo họ
mặc dù không biết đi về đâu! Chúng tôi đi qua
băi đất trống mà dân tị nạn tụ tập
trước khi bị pháo, trên mặt đất
đầy những vũng máu và các mảnh cơ thể
nạn nhân! Để tránh lộ h́nh tích trên băi đất
trống trải, làm mồi ngon cho hỏa lực
địch, chúng tôi ṿng xuống men theo phía bờ biển,
dưới ánh trăng sao, chúng tôi vượt qua những
tảng đá trơn ướt lớn như những
chiếc xe Jeep hoặc GMC, chỉ tội mấy anh
người nhái TQLC phải thay phiên nhau cơng ĐT
Lương.
Vừa ra khỏi căn
cứ Hải Quân khoảng một km, th́ địch
bắt đầu pháo kích đợt hai, lần này
cường độ gấp 10 trước, tiếng nổ
liên tục không phân biệt được, căn cứ
Hải Quân bị phủ lửa, có lẽ không một sinh
vật nào có thể sống được trong đó! Không
biết ông bạn “vàng” Phước của tôi có c̣n trong
căn cứ này không? V́ Hải Quân không ai mang theo
máy PRC25, nên Tướng Thoại phải mượn máy
của TQLC liên tục gọi tàu vào đón, nhưng không có
ai trả lời! Tới Spanish Beach, chúng tôi đi ṿng lên núi
Sơn Trà, nơi đây không có đường, phải
vạch bụi cây mà đi, tới lưng chừng núi th́ có
một tảng đá lớn bằng một ṭa nhà cản
lối, chúng tôi ngồi chờ để anh em người
nhái TQLC t́m chỗ thấp có thể qua được.
Phó Đề Đốc
Thoại ngồi xổm đưới đất liên
tục gọi máy PRC25 cầu cứu mà không có hồi âm, tôi
chợt nghĩ ḿnh đang là nhân chứng của một
sự kiện có một không hai trong quân sử:
“Một ông Phó Đề Đốc HQ có
dưới tay nhiều trăm chiến
thuyền lớn nhỏ không xa đây, vậy mà ông đă
phải khản cổ cầu cứu suốt 3 tiếng
không ai trả lời! Một ông Tướng TQLC có trong tay
cả chục ngàn quân thiện chiến nay bị lâm vào
bước đường cùng, ngay trong thành phố Đà
Nẵng, với khoảng mười thuộc viên chỉ
v́ một buổi họp không cần thiết và sai
chỗ”.
Theo tin t́nh báo th́ VC sẽ
pháo kích căn cứ Hải Quân lúc 4 giờ sáng 29/3/75
như vậy th́ địch đă có đầy đủ
yếu tố để pháo kích căn cứ tối hôm
28/3/75 và cuộc họp cao cấp của các Tướng
Lănh QĐI đă diễn ra dưới họng đại
bác 130 ly của địch, chúng pháo sớm hơn v́
thấy các tướng lănh đến họp. Khi mới
đến căn cứ lúc 7 giờ tối 28/3/75, tôi
thấy nhiều ngàn dân tị nạn đang tụ tập
trong căn cứ, chỉ cách nơi họp khoảng 100m,
với cái nh́n của một người lính, tôi đă
nghĩ nơi đây không an toàn v́ đặc công và tiền
sát VC đă trà trộn, Trung Tướng Tư Lệnh QKI
hoặc chính các phụ tá hay bộ tham mưu chắc
chắn phải biết điều sơ đẳng này
để tŕnh lên Tư Lệnh, có lẽ v́ sự vắng
mặt của thuộc hạ, thiếu báo cáo t́nh h́nh
khiến ông TL/QĐ vẫn tiếp tục buổi họp
tại đây thay v́ tại căn cứ Non Nước,
nơi đang được TQLC bảo vệ cẩn
mật.
Nh́n xuống căn cứ
HQ, lửa cháy rực một góc trời, tiếng
đại bác 130 ly liên tục nổ như tiếng
sấm rền không dứt, tôi nghĩ bọn VC đang làm một
việc vô ích v́ căn cứ đă bị bỏ trống,
nếu lúc 9 giờ tối 28/3/75 thay v́ pháo kích, chúng chỉ
cần dùng một toán đặc công tấn công vào căn
cứ th́ không biết chuyện ǵ sẽ xẩy ra cho các
tướng lănh của QĐI, và bây giờ nếu
đặc công VC đi lên núi th́ chúng tôi sẽ lâm nguy.
Đang mải mê suy
nghĩ, tôi nghe một giọng nói oang oang quen thuộc
của Bác Sĩ Phước, theo tiếng nói tôi t́m ra anh,
trong quân phục hải quân màu xanh, đầu đội
nón sắt, vai đeo M16 cùng với một giây đạn,
tôi đến bên nói đùa:
- Phước, mày om ṣm quá,
hồi nẫy có mấy thằng đặc công VC hỏi
tao mày đi đâu vắng nhà, tao không nói, nên chúng nó ôm AK47
chạy lên núi t́m mày đó. Phước quay lại nh́n tôi:
-Trời đất, hóa ra
là chú mày, hồi nẫy y tá nói có một sĩ quan TQLC súng
đạn đầy người đến t́m làm tao
đang lo…
-Thôi, đừng mất
th́ giờ, mày chỉ đường cho TQLC tụi tao
đi.
-Tao đâu có biết, tao
mới từ Vùng 4 đổi qua được mấy
tuần, hồi chiều họ bỏ đi nhưng tao
ở lại v́ ông tướng cần bác sĩ.
Mấy anh người nhái
TQLC t́m được một đoạn núi đá thấp
chừng 2m, chúng tôi khó khăn lần lượt
vượt qua đến một đoạn đường
đi dễ hơn, theo tiếng sóng, chúng tôi đến
một băi biển hoang vắng toàn đá phía trên Spanist Beach,
ngoài khơi chúng tôi thấy tàu HQ đang chạy… Tướng Thoại đă quá mệt mỏi nên
nhờ TQLC Nguyễn Thế Thụy, âm thoại viên của
Tướng Lân, tiếp tục gọi dùm.
Khi theo Tư Lệnh TQLC
đến căn cứ HQ họp th́ Thụy, âm thoại
viên cửa TL đă thuộc gần hết những tần
số giải tỏa đặc lệnh truyền tin, trong
đó có cả của HQ, nên khi Tướng Thoại
nhờ liên lăc th́ anh thành thuộc “bẻ cổ” máy qua
tần số giải tỏa rồi cất tiếng
gọi. Như một phép lạ, trong máy có tiếng trả
lời, Thụy vội trao ống liên hợp cho
Tướng Thoại để nói chuyện với Hải
Quân Thiếu Tá Nguyễn Văn Hy*…
(* gần đây tôi có
nhận được điện thư của Thiếu
Tá Hy, vị cứu tinh đă t́m ra chúng tôi, th́
được biết anh thuộc một đơn
vị Hải Quân di tản từ Thuận An về Đà
Nẵng, khi địch pháo kích đợt hai, anh ra lệnh
cho đơn vị rời vịnh Đà Nẵng, di
chuyển đến Spanish Beach để tránh pháo, lúc đó
Thiếu Tá Hy đang ở trên ghe Yabuta của Duyên Doàn 12,
khoảng 3 giờ sáng ngày 29/3/75. Trong lúc địch pháo kích
đợt 2, anh gọi máy đến Trung Tâm Hành Quân Vùng I
Duyên Hải không có ai trả lời, vô t́nh anh quay qua tần
số giải tỏa nên nghe đươc lời kêu
cứu, anh ra lệnh cho ghe đi vào).
Chuyến đầu tiên
chính anh Hy đứng ở mũi ghe kéo Tướng
Thoại, Tướng Lân lên, cùng đi trong chuyến này có
Đại Tá Lương, và một số sĩ quan, ghe
Yabuta là một loại ghe nhỏ không thể đón hết
mọi người nên tôi và Đ/Úy Đan ở lại v́
chúng tôi muốn chờ anh em TQLC lên thuyền hết rồi
mới đi. Tuy ân hận 5 phút v́ không đi theo
bệnh nhân của ḿnh nhưng tôi cũng yên tâm v́ đă
đưa cho Đại Tá Lương những thuốc ông
cần. Lúc đó tôi và Đ/Úy Đan đứng trên một
mỏm đá riêng biệt với nhóm người c̣n
lại khoảng 20 người gồm HQ và TQLC, Thiếu Tá
Hy trở lại thêm 3 lần nữa đón hết đám
người này, chuyến cuối cùng anh phải
mượn một chiếc ghe đánh cá của dân v́ ghe
Yabuta của anh thiếu nhiên liệu.
Theo Hải Quân Thiếu Tá
Nguyễn Văn Hy, việc anh làm đêm hôm đó là tự
nguyện thúc đẩy bởi t́nh đồng đội.
Quả thật đây là một gương can đảm
và t́nh đồng đội cao đẹp mà tôi đă
được cái vinh dự chứng kiến từ
đầu đến cuối.
Khi trời đă sáng, trên
bờ biển hoang vắng chỉ c̣n có tôi và Đ/Úy Đan
nên nó càng hoang vắng hơn, chúng tôi đứng trên mỏm
đá chênh vênh, nh́n về phía căn cứ HQ, địch
đă ngưng pháo nhưng khói lửa vẫn bốc cao, sóng
thủy triều đang lên che phủ mỏm đá làm chúng
tôi bị ướt đến đầu gối, tôi
thật sự “lạnh cẳng” theo cả hai nghĩa, nh́n
qua Đan th́ thấy anh đang nh́n tôi vô cảm, chúng tôi
chỉ c̣n chờ có hai chuyện, VC đến trước
th́ chúng tôi chết, ghe Hải Quân tới th́ chúng tôi
sống, chợt nghĩ sống hay chết th́ giây phút này
cũng là giây phút cuối cùng tôi được nh́n thành
phố Đà Nẵng thân yêu. Biển vẫn
xanh, sóng vẫn ŕ rầm một điệu nhạc muôn
thủa làm dịu ḷng người. B́nh minh vừa ló
dạng hắt những tia sáng phản chiếu sóng
biển như những thỏi vàng long lanh, trên trời
những cụm mây trắng lững thững trôi vô t́nh
như không biết đến cuộc gió tanh mưa máu
đang diễn ra phía dưới, từng đàn hải âu
vừa rời tổ riú rít đi t́m mồi làm tôi chợt
nghĩ đến cuộc rút quân hoảng loạn vô tổ
chức này. Hôm nay mấy chú hải âu sẽ
được no bụng v́ sẽ có vô số người
chết, có thể trong đó có Đan và tôi.
Khoảng 9 giờ sáng
29/3/75, một chiếc tiểu đĩnh loại LCVP không
biết từ đâu tới và ngừng lại cạnh
chúng tôi, trên thuyền không có ai ngoại trừ anh Trung
Sĩ lái thuyền, tôi và Đ/Úy Đan nhẩy lên, anh Trung
Sĩ chẳng nói ǵ, cho thuyền chạy thẳng ra
khơi, chúng tôi cũng không cần biết là sẽ đi
về đâu, bây giờ tôi mới thấy Đ/Úy Đan
mở máy PRC25 gọi đi mấy nơi.
Khoảng 10 giờ sáng
thuyền dừng lại bên chiếc HQ 802, chúng tôi dùng thang
giây leo lên chiến hạm, có lẽ chúng tôi là những
người cuối cùng v́ sau đó thang được kéo
lên, vị hạm trưởng chiếc HQ 802 là Hải Quân
Trung Tá Vũ Quốc Công, ông lịch thiệp vui vẻ
chỉ cho chúng tôi t́m đến căn pḥng có Thiếu
Tướng Bùi Thế Lân và các sĩ quan TQLC. Tôi
coi lại vết thương cho Đại Tá Lương
sau đó đi lên sân tàu phía trước để t́m
chỗ nghỉ ngơi. Trên tàu có khoảng 5,6 ngàn
người gồm thường dân và binh sĩ đủ
các quân binh chủng của QKI, nh́n thấy họ, tôi
thầm cảm ơn Trung Tá Công và thủy thủ đoàn
chiếc HQ 802 đă cực nhọc vất vả cứu
được nhiều người.
Lên tới sân tàu phía
mũi, tôi t́m một chỗ khuất để nằm
nghỉ và để “gậm nhấm” nỗi đau
thương nhục nhă của một “tàn tốt”, nhưng
tôi không được yên v́ gặp lại vài người
bạn cũ, trong đó có một niên đệ Y Sĩ
Trung Úy Phạm Anh Dũng, anh mặc một bộ
đồ bộ binh nhầu nát, chỉ trừ cặp lon
trung úy sáng chói, anh cười toe toét tươi như hoa
đến bên tôi hỏi vài điều, giữa cảnh
nước mất nhà tan này mà anh lại vui vẻ như
vậy làm cho tôi ngẹn họng không biết nói ǵ.
Chiến hạm HQ802
nhổ neo xuôi Nam khoảng 11 giờ sáng 29/3/75 mang theo
nỗi đau buồn nhục nhă chán chường của
quân dân QKI, tàu cặp bến Cam Ranh khoảng 3 giờ sáng
30/3/75, thường dân và binh sĩ bộ binh lên bờ
trước, sau cùng mới tới lượt TQLC, một
điều trái ngược là thương binh lại lên
bờ sau cùng. Tôi và Đại Tá Lương
xuống tàu khoảng trưa ngày 30/3/75 lúc thủy thủ
đoàn HQ802 đang lau rửa tàu. Loay hoay môt lúc mới
t́m được xe tản thương đến
Bệnh Viện Hải Quân Cam Ranh lúc 1giờ chiều,
tại đây tôi gặp một vị niên trưởng tử
tế tận t́nh giúp đỡ nên việc giải phẫu
cho Đại Tá Lương trở nên dễ dàng, cuộc
giải phẫu kết thúc thành công lúc 4giờ chiều cùng
ngày, trong lúc Đại Tá Lương đang ngủ trong
pḥng hồi sức, chợt nhớ là tôi chưa ăn ǵ
từ hai ngày nay nên vội vào câu lạc bộ hải quân
đối diện với bệnh viện để
gọi món ăn, nh́n cảnh thanh b́nh của quân cảng Cam
Ranh mà tôi bỗng chạnh ḷng thương sót cho ḿnh, v́
đă lỡ thích “gió sương” nên mới ra nhập binh
chủng TQLC để rồi được quá nhiều
“sương gió”!
Đang suy nghĩ vớ
vẩn th́ chợt nhận ra một điều khác lạ,
lúc tôi mang Đại Tá Lương đến bệnh
viện th́ Quân Cảng Cam Ranh đầy TQLC, bây giờ
chẳng thấy ai, hỏi một sĩ quan HQ ngồi bàn
bên cạnh th́ được biết TQLC đă bắt
đầu lên tàu về Vũng Tàu lúc 3giờ chiều, tôi
vội trả tiền mặc dù chưa được
ăn ǵ, rồi chạy về bệnh viện. Đại
Tá Lương đang ngủ ngon lành, nhưng tôi không có
lựa chọn nào khác là phải đánh thức ông dậy,
chúng tôi mượn một chiếc xe hồng thập
tự lái thẳng đến TTHQ/HQ Vùng II Duyên Hải, tôi
bước vào Trung Tâm th́ thấy Phó Đề Đốc
Hoàng Cơ Minh đang ngồi uống café với mấy
sĩ quan Hải Quân khác, chưa kịp chào kính th́ ông đă
đứng dậy đưa tay bắt, miệng hỏi:
- Sao bây giờ bác sĩ c̣n
ở đây, TQLC đang lên tàu HQ 802 về Vũng Tàu?
- Tôi mổ cho ông
Đại Tá bị thương mới xong,
Phó Đề Đốc
Hoàng Cơ Minh suy nghĩ một giây rồi nói:
-Thôi được,
để tôi giúp bác sĩ.
Nói xong, ông
bốc máy nói chuyên một lúc rồi ra lệnh cho hai
người cận vệ đưa chúng tôi ra cầu tàu
BTL Vùng II Duyên Hải. Có
một điều đặc biệt ở ông
tướng này làm tôi nhớ măi là khi tôi chào kính cám ơn ông
th́ ông chỉ mỉm cười thân mật bắt tay tôi và lịch sự chúc chúng tôi
thượng lộ b́nh an.
Khi chúng tôi đến
cầu tàu th́ HQ802 đă rút thang và sửa soạn hải
hành,có lẽ được báo
trước nên trên tàu thả thang lưới xuống
để chúng tôi leo lên, hai anh cận vệ của Tướng
Minh cơng Đ/Tá Lương lên tàu rồi trở
xuống…Chúng tôi là những người cuối cùng lên tàu.
Vũng Tàu 31/3/1975.
Chiếc HQ802 nhổ neo lúc
6giờ chiều 30/3/75, nhưng v́ sóng và gió ngược nên
măi đến 8giờ tối mới rời Quân Cảng Cam
Ranh để xuôi Nam về Vũng Tàu, trên tàu chở
khoảng 4000 tàn binh của SĐ TQLC (TT2TQLC,trang 551), như
vậy chỉ có 1/3 quân số của SĐ thoát
được về Cam Ranh, gần 8000 TQLC c̣n lại th́
hoặc chết hay mất tích tại Thuận An và Đà
Nẵng. đa số các TQLC tinh thần đổ nát và
được mặc quần áo mới rộng thùng th́nh
v́ khi bơi ra chiến hạm từ căn cứ Non
Nước Đà Nẵng sáng ngày 29/3/75, các anh đă
phải bỏ lại vũ khí và quân phục trên bờ.
Tôi được biết
chỉ có LĐ468 của Đại Tá Ngô Văn
Định lui binh tại băi biển Nam Ô, may mắn
được tàu Hải Quân vào sát bờ đón nên quân
số và vũ khí cá nhân c̣n đầy đủ, cuộc
lui binh của LĐ258 và 369 TQLC tại căn cứ Non
Nước đă xẩy ra trong hỗn loạn và đẫm
máu, chỉ có những TQLC may mắn và biết bơi
mới lên được tàu, những người c̣n
lại thi...(TT2TQLC, trang 578-579). Ngoài ra tôi
được biết SĐTQLC đă có cái vinh dự
bảo vệ cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng tá
túc trong đêm ngày 28/3/75 tại căn cứ Non Nước
để rồi sáng ngày 29/3/75 hộ tống ông lên
chiến hạm sớm nhất, trước khi đi,
lại c̣n được nghe ông đă nói một câu đáng
được ghi vào quân sử: “Coi như đây là một
cuộc tự thoát” (Đ/tá Trí, TT2TQLC,trang
548).
Sư Đoàn
TQLC với quân số gần 12.000, là một sư đoàn
tổng trừ bị của quân lực VNCH, trực
thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, đây là một
trong những sư đoàn thiện chiến nhất mà
sở trường là di động đánh những
trận địa chiến lớn tấn công những
đại đơn vị địch. Sau chiến thắng Quảng
Trị năm 1972, sư đoàn này bị QĐI xin giữ
lại để làm lính Địa Phương Quân giữ
đất cho QKI. Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu đă nhiều lần đ̣i SĐ/TQLC về,
để làm những nhiệm vụ khác quan trọng
hơn mà lần cuối cùng là ngày 22/3/75, (Tại sao tôi
bỏ QK1, NQT) nhưng QĐI đă không trả, để
rồi ngày 29/3/75 SĐ/TQLC không được đánh
với địch một trận nào mà bị tan hàng
chỉ v́ một cái lệnh lui binh hoảng loạn và không
chuẩn bị tính toán.
HQ 802 về đến
Vũng Tàu lúc 4 giờ 20 chiều 31/3/75, măi đến 9
giờ tối tôi mới đặt chân lên cầu tàu
với tâm trạng nhục nhă chán chường của một
bại binh, nh́n trong đám đông tôi thấy anh ruột
tôi, Bác Sĩ Phạm Lê Thăng lúc đó đang làm
Trưởng Ty Y Tế tỉnh Phước Tuy, anh tôi
đang tất tả ngược xuôi t́m tôi trên cầu tàu,
gặp tôi anh mững rỡ hơn bắt được
vàng, anh nh́n tôi từ đầu đến chân để
biết tôi không bị thương rồi hỏi.
- Cậu đă ăn ǵ chưa, anh có mua khúc bánh ḿ cho cậu,
cả nhà đều lo cho cậu.
Tuy không có
một hột cơm nào trong bụng từ ngày 28/3/75
nhưng tôi vẫn nói để anh tôi yên ḷng.
- Em c̣n no lắm, anh cứ
đưa ổ bánh cho em để ngày mai ăn sáng.
Hai anh em hàn huyên một lúc
rồi anh tôi phải về để báo tin mừng cho gia
đ́nh, trong ánh đèn vàng hiu hắt trên cầu tàu, tôi
đứng đó, nh́n theo bóng anh tôi khuất trong màn đêm
mà ḷng đau đớn, tôi đă chẳng làm nên cơm cháo
ǵ để bảo vệ đất nước, bây
giơ lại làm cho cả gia đ́nh lo lắng…
Orange County-California, 2010.
Một buổi sáng mùa Thu
có nắng vàng rực rỡ, ba anh TQLC già ngồi nhâm nhi
nước trà tại Factory Cafe là tôi, Trần Như
Hùng và Cao Xuân Huy, trên bàn thấy một tờ báo cũ
đăng bài "Tại Sao Tôi Bỏ QKI" mà tác giả
là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, chúng tôi chia nhau
đọc, Tướng Trưởng phủ nhận
tất cả tội lỗi của các tướng lănh
QĐI bị kỷ luật và đổ tội làm mất
QKI cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Đọc xong tôi thắc mắc hỏi hai đồng
đội:
- Quân Đoàn I có quân số
tương đương với địch, không đánh
một trận nào cấp trung đoàn mà lại tan hàng
chỉ trong có năm ngày, vậy mà không ai có lỗi
?
Cao Xuân Huy cười
rồi nói:
- Chỉ có mấy
thằng lính là có tội thôi!
Đây cũng là câu
cuối cùng Cao Xuân Huy nói với tôi v́ chỉ mấy
tuần sau anh đă lên tàu suốt để trở về
băi biển Thuận An t́m lại khẩu
súng đă bị gẫy tháng Ba năm 1975.
Bằng Phong Phạm Vũ Bằng.
Viết cho mùa đại tang của binh
chủng TQLC.
Tài liệu tham khảo:
-Tuyển Tập 2 Thủy Quân Lục Chiến(TT2TQLC)
- Can Trường Trong Chiến Bại (CTTCB)
PĐĐ Hồ Văn Kỳ Thoại.