CÁI
TÚI BÙA
----- Vũ Lâm -----
(Trích
đăng nguyệt san Con Ong Việt số 27 tháng 4, 2002)
Bây giờ Lâm
đă gần sáu mươi, quá nửa đời
người. Nh́n lại quăng đời đă qua
đôi khi anh có cảm giác sợ sợ, h́nh như có một vị
thần linh nghiêm khắc vẫn đi theo
anh, trừng phạt, nhưng che chở, không cho hưởng
b́nh yên, an lành mà bắt đời anh phải thăng
trầm. Vị thần linh đó cho anh những may mắn,
nhưng không cho trọn vẹn mà cũng không để anh
xui đến tận cùng, đưa đến phong ba băo
táp, rồi đỡ anh dậy khi đuối sức, đẩy anh đến
với hiểm nguy, nhưng lại cứu anh ra khỏi
đường cùng. Không biết ngài có phải là thần
hộ mạng của anh từ lúc mới sanh ra đời
mà mẹ anh thường kể
là đă cứu anh thoát chết ngày bé, cứu anh khỏi
cảnh tàn tật suốt đời?. Hay vị thần
linh đó ở trong cái “Túi Bùa” mà mẹ đă cho anh
ngày tốt nghiệp Vơ Bị để hộ thân trên
bước đường binh nghiệp? Cái
“Túi Bùa” mà anh đă coi thường, xử tệ. Cái
“Túi Bùa” đă theo anh suốt đoạn đời binh
nghiệp, nhưng chỉ có một lần, một
lần duy nhất anh đeo
vào cổ, đốt dần hết ba lá bùa bên trong
để cầu xin một điều, trong những ngày
anh bỏ nước ra đi,
“Tháng Tư Đen” .
***
Cái
túi bùa trong ngày măn khóa
Mẹ của Lâm
đă lên Đà Lạt từ mấy hôm trước
để dự lễ măn khóa và đón anh về. Phong cảnh đẹp của núi
đồi Đà Lạt, cái lạnh d́u dịu, lại thêm
các cô cháu gái đi theo lúc nào cũng tíu tít bên cạnh, đùa
dỡn, cười vui khiến bà cũng vui lây, quên đi
những âu lo khi nghĩ đến con đường chinh
chiến gian nguy mà con bà sắp phải đi qua sau ngày măn
khóa.
Ngày đầu tiên mới lên
ĐàLạt mẹ đă hỏi anh:
-
Con đă biết sẽ đi đâu, đơn vị nào
chưa? Sao ở Sài G̣n người ta đồn con đi
“lính thủy đánh bộ”.
Lâm lôi ra cái nón nâu hănh diện
khoe với mọi người:
-
Chắc mấy thằng nằm vùng đồn nhảm, con
đă chọn Biệt Động.
Rồi anh kể huyên thuyên cho
mọi người nghe câu chuyện chọn binh chủng,
khó khăn lắm,
ma mănh, bon chen lắm mới dành dựt
được cái binh chủng “mũ nâu” này đấy! chỉ có ba binh chủng nón mầu,
đồ rằn thôi, c̣n lại là các sư đoàn bộ
binh sẽ được
chọn sau ngày măn khóa.
Lâm hăng say và vui quá, nói cười huyên
thuyên mà không để ư đến mẹ, đôi mắt
trĩu buồn nh́n anh, im
lặng với cái cau mày khó chịu.
Đêm
trước ngày măn khóa, Mẹ anh và các cô cháu vào
trường dự lễ truy điệu. Ngồi
trên khán đài bà cố t́m trong hàng quân xem con ḿnh đứng
đâu nhưng đành chịu. Các Sinh Viên Sĩ Quan trong hàng
uy nghi, ai cũng giống nhau, đại lễ mùa đông
bằng dạ màu “ô-liu” , nón và quai trắng che gần
hết khuôn mặt, kiếm tuốt trần, lưỡi lê
đầu súng sáng loáng và cờ xí rập trời. Bắt đầu buổi lễ, bà vui lắm,
cười nói luôn miệng với các cháu. Đêm
Đà Lạt lạnh buốt âm u, những ánh đuốc
bập bùng quanh đài tử sĩ, tiếng gió rít từ
rừng núi quanh trường vọng lại, như
tiếng oan hồn tử sĩ đang trở về với trường
mẹ khiến bà im lặng dần, rùng ḿnh thấy âm khí bao quanh Vũ
Đ́nh Trường. Khi đèn tắt hết chỉ c̣n ánh
sáng lung linh của những ngọn đuốc, chiêng
trống, tiếng gió hú nhỏ dần rồi tiếng vọng
âm vang như đến từ bên kia thế giới:
. . . . phút chốc liệt vị đă trở nên
người thiên cổ. . . .
Bà bắt đầu khóc, tiếng khóc lớn
dần rồi nức nở.
Tiếng
sáo và giọng ngâm lại nổi lên:
Mô đất
lạ chôn vùi thân bách chiến . . . .
Bà đă khóc
đến tận cùng cảm xúc, các cô cháu gái đă phải
ôm lấy bà. Bà khóc suốt trên con đường
về và suốt đêm hôm đó.
Nhưng mẹ
của Lâm lại vui ngay ngày hôm sau khi dự lễ măn khóa.
Vui với tiếng nhạc quân hành, tiếng
hát xuất quân. Vui với những hùng tráng của hàng
quân cờ xí rợp trời,
rừng kiếm vung cao sáng loáng và say mê theo dơi những nghi
lễ cổ truyền của trường Vơ Bị, nhất là khi thủ khoa bắn
tên đi bốn phương
trời, mẹ cười tươi khi thấy hoa mai
nở trên vai áo các tân sĩ quan.
Ngay giữa sân
doanh trại Sinh Viên Sĩ Quan, khi chuẩn bi dự tiếp
tân trong phạm xá. Mẹ anh mở cái gói nhung mầu
đỏ,
lấy ra một sợi dây ngũ sắc có cái túi vải nâu, nhỏ
bằng ngón tay cái, quàng vào cổ Lâm.
Anh vừa ngượng với
người yêu, với các bạn gái của cô em họ,
vừa xấu hổ với bạn bè cùng khóa đang
đứng vây quanh. Anh dằng mạnh, chui đầu ra
khỏi “sợi dây chuyền quái dị” càu nhàu:
-
Mẹ! mẹ làm ǵ kỳ vậy?
Mẹ
nh́n anh ái ngại:
-
Chiến trường đang sôi động lắm! . . . đường
tên mũi đạn, ai biết đâu mà tránh. Mẹ
vẫn cầu xin cho con, mẹ thỉnh cho con cái
tượng Phật làm bằng nanh heo rừng để
trong cái túi này, có ba lá bùa nữa, khi nào nguy hiểm khốn
cùng, con đốt một lá để cầu xin, thần hộ mạng sẽ phù
hộ cho con tai qua nạn khỏi.
Lâm trả lại cho mẹ
sợi dây, vùng vằng:
-
Mẹ! mẹ cứ đi lễ bái, tin dị đoan! Số con thọ lắm, sau này “làm
tướng” mà mẹ.
Mẹ
mắng yêu như
ngày anh c̣n bé:
-
Cha mày! .
. . thằng
cứng đầu . . . đồ
rắn mắt . . .
Tướng ǵ? . .
.Tướng cướp!
Lâm quay sang nói với các bạn
như để chữa thẹn:
-
Sống chết đă có số mạng, chết th́ ở
nhà bị chó cắn
cũng chết, xe đụng chết, tắm ao, tắm hồ
chuột rút cũng chết đuối. Thi sĩ, thơ
thẩn, vừa đi vừa mơ mộng làm thơ . . . đụng
cột đèn cũng chết cơ mà, phải không tụi
mày?
Mọi người cười
vui, không ai để ư đến nét lo âu trên mặt
người mẹ có đứa con trai sắp đi vào vùng
lửa đạn.
Đó là lần
đầu tiên Lâm thấy cái “túi bùa”.
***
Linh Nghiệm đầu.
Sau lễ măn khóa Lâm không ở
lại trong trường để chọn đơn
vị. Anh ra phố với
mẹ và các em, huênh hoang với bộ dạo phố worsted,
lon thiếu úy trên cầu vai đen và cái nón nâu Biệt
Động. Nắng ấm Đà Lạt, trời xanh, núi
đồi xanh, nước Hồ Xuân Hương xanh biếc,
người yêu của anh nơi đây, thành phố này,
thành phố thương yêu của anh, anh phải cố
thâu hết những h́nh ảnh êm đẹp này vào kư ức
trước khi rời xa. Bên mẹ, bên
người yêu và các em, anh vui lắm, cười nói huyên
thuyên. Cho đến khi mấy người bạn cùng
chọn biệt động hớt hải đến báo
tin:
-
Lâm ơi! chết mày!. . . không thấy tên mày trong danh sách 32 thằng
biệt động.
Lâm
cười chửi thề:
-
Mẹ … tụi
mày diễu dở … Tao đứng thứ 21 trong danh sách,
đâu phải dự khuyết mà tụi mày hù.
Thấy vẻ nghiêm trọng
của các bạn, Lâm biết họ nói thật, anh
bắt đầu lo và nghĩ
thầm: Không có trong danh sách Biệt Động Quân, bỏ
không chọn đơn vị th́ chỉ có nước đi
vùng khỉ ho c̣ gáy, sư đoàn 3 tân lập mà thôi … tàn đời binh nghiệp
rồi!
Anh bỏ mẹ và các em ngay
giữa khu chợ Ḥa B́nh, mượn chiếc Honda Dame chạy vội vào trường với
tất cả lo âu hồi hộp.
Đọc đi đọc
lại trên bảng Biệt Động Quân không thấy tên
ḿnh, Lâm run lên, đầu óc choáng váng, không
biết số phận ḿnh ra sao? về
đâu? đi đâu?. Đọc hết
danh sách các đơn vị, sư đoàn, cả sư đoàn 3 cũng
không thấy có tên.
Ngay vừa lúc hai người lính kéo ra hai
bảng danh sách những tân sĩ quan đi về quân
chủng không quân và hải quân. Lâm thấy tên
ḿnh thứ ba trong danh sách Hải Quân. Đột ngột,
ngỡ ngàng, anh lặng người, đầu óc trống
rỗng không kịp suy nghĩ ǵ cả.
Khi ra phố
gặp lại mẹ và các em. Trong vui buồn lẫn
lộn anh cười nói với mẹ:
-
Con lọt về Hải Quân mẹ ạ … Hải Quân kiểu này
chắc là Hải Quân mắc cạn, Hải Quân trên núi!
Lâm thấy ánh mắt mẹ sáng
hẳn, nỗi vui mừng ngập tràn trên nét mặt trên môi
cười. Mẹ ôm quàng cả hai tay
qua cổ anh:
-
Mừng cho con, Hải Quân an nhàn, ít nguy
hiểm hơn con ạ. Mẹ chỉ c̣n ḿnh con. Con có
Trời Phật phù hộ có thần hộ mạng luôn
ở bên con. Mẹ vẫn cầu xin cho con an
lành từ ngày con trốn nhà đi Vơ Bị.
***
Linh nghiệm trên sông - Giang đoàn.
Lâm vừa chào
mẹ, vừa dắt chiếc Honda ra cửa định
đi. Mẹ anh gọi dật lại:
-
Lâm, hôm nay phải ở nhà ăn cơm,
mẹ nấu canh cua rau đay, cá kho khế ngon lắm.
Anh
nhăn nhó:
-
Mẹ, con có hẹn đón Phượng lúc tan sở đi
ciné, đi ăn mà mẹ. Trước
khi ở căn cứ về con có gọi điện
thoại hẹn trước rồi. Hôm nay con sẽ về
sớm, mà
mẹ cứ đi ngủ trước đi, đừng
chờ con.
Mẹ
anh nghiêm sắc mặt dằn từng tiếng:
-
Lần nào con về cũng tắm rửa vội vàng
rồi đi chơi thâu đêm suốt sáng. Nếu lần
này không ở nhà ăn cơm th́ … con
đi luôn đi! Con cứ
ở luôn dưới căn cứ, muốn đi chơi
đâu th́ đi, khỏi cần về nhà nữa.
Chưa
bao giờ Lâm thấy mẹ quyết liệt như lần
này, anh nài nỉ:
-
Tối nay thôi, ngày mai con ở nhà với mẹ cả ngày,
chiều mới xuống căn cứ mà. Mẹ
muốn đi chùa, đi thăm ai mai con sẽ đưa
mẹ đi.
-
Thôi … ông tướng! lần nào cũng
nói láo, tôi không cần đi đâu cả, nhưng tối nay “ông tướng”
phải ở nhà, tôi có vài chuyện cần hỏi.
Anh
vẫn nài nỉ:
- Để người ta đợi tội
nghiệp mà mẹ.
-
Tan sở không thấy con đón, năm mười phút nó
cũng phải về thôi.
Lần đầu tiên anh
thấy mẹ giận dữ , linh tính
cho biết có chuyện ǵ quan trọng lắm mẹ mới
quyết liệt như lần này. Anh dùng
dằng muốn đi mà không dám.
Lâm và mẹ vào bàn ăn, nét
mặt mẹ b́nh thản, im lặng không nói một lời
cho đến gần cuối bữa mẹ mới vào
đề:
-
Con nói dối mẹ hơn một năm rồi! con nói ở giang đoàn con ngồi pḥng hành
quân an nhàn như công chức phải không?. Con biết không ….
hôm qua thím Hải đem cho mẹ xem tờ
Thế-Giới-Tự-Do có bài phỏng vấn và có h́nh con
đứng chống nạnh bên cạnh mấy cái xác
Việt Cộng, thím hỏi:
“cụ ơi! có phải là cậu Lâm
đây không?”. Tại sao con nói láo mẹ? Phải cho mẹ biết
để mẹ cầu an cho con. Cái
tượng Phật mẹ cho, con để đâu, cho ai,
cả năm nay mẹ không thấy … ?
Lâm
ngắt lời mẹ:
-
Mẹ à, đi Hải Quân, chữ thọ to bằng cái
đ́nh rồi mẹ, bạn bè con cả năm nay hành quân
liên miên, chiến trận nặng nề, cố đại úy cũng
nhiều rồi mẹ ạ! con là
tốt phước lắm đấyï, con trai nhờ
phước mẹ, mẹ c̣n cầu ǵ hơn nữa! Con kể chuyện chiến
trận cho mẹ đâu có lợi ích ǵ, chỉ khổ cho mẹ ngày
đêm phải lo sợ, béo mấy thầy mấy
đền, moi hết tiền của mẹ thôi. C̣n cái “Túi
Bùa” mẹ cho, con vẫn cất trong cái hộp đựng
đồ kỉ niệm của con để ở
dưới căn cứ. Không lẽ “vơ quan”
đi chơi với đào, mẹ bắt con đeo ḷng
tḥng cái “túi bùa” trên cổ như cu Tí, cu Tèo mặc quần
thủng đít, tḥ ḷ mũi xanh ở nhà quê.
Lâm chợt liên tưởng
đến những may mắn lạ kỳ suốt gần
hai năm phục vụ ở giang đ̣an. Mỗi lần
có biến cố đặc biệt, có thiệt hại
lớn là anh vắng mặt v́ những dẫn dắt vô
h́nh, hoặc v́ lệnh thay đổi vùng, hoặc vừa
măn phiên tuần tiểu, hoặc bị biệt phái đi
hộ tống cho tiểu khu. hoặc
nghỉ phép. Một lần dẫn hai chiến đỉnh
trên đường về, chạy khơi khơi vô ư,
bị chơi lén một trái B40, vỡ banh mũi chiến
đỉnh, cố vấn Mỹ bị thương,
xạ thủ đại liên trước mũi chết,
trung sĩ thuyền trưởng bị thương
nặng, xạ thủ đại liên sau lái bị nhẹ,
c̣n anh bị sức dội hất văng xuống sông vô
sự. Ngược lại những lần có “ăn ngon”,
“hốt trọn”
là anh lại có mặt hoặc được
đưa đẩy tới.
-
Con không được ăn nói xàm
xỡ, có tin, có lành. Ăn ở phải
có đức, mẹ thấy con hoang đàng hư
đốn, ngỗ nghịch từ ngày đi lính. Cặp
hết cô này đến cô khác, hứa hẹn làm khổ
người ta là mang tội đấy con! Bây giờ
“quả báo nhăn tiền” chẳng phải đợi
đến kiếp sau đâu. Mấy hôm nay cô Thủy, cô
Phượng, cô Dung
đến chơi, hỏi thăm xem hôm nào con
về. Tuần trước Bé Phương
ở ĐàLạt xuống thăm mẹ, có ư đợi
con quyết định đấy. Sống
phải thủy trung, ai cũng được nhưng
chỉ được một người thôi. Già cái đầu rồi, lấy vợ đi là
vừa. Mẹ ở nhà một ḿnh, lúc
ốm lúc đau chỉ biết trông nhờ hàng xóm.
Lâm
dịu giọng:
-
Mẹ khỏi phải lo, con sắp sửa có lệnh thuyên
chuyển lên Hạm đội. Đi mút
chỉ ngoài biển ít khi về Sài G̣n lắm. Có t́m đỏ mắt cũng không thấy
được một thằng Việt Cộng, chữ
thọ c̣n lớn hơn mấy cái building, mẹ khỏi
cần cầu xin ǵ cả. Mà . . . con có hứa hẹn với ai đâu, chỉ
bạn bè đi ciné, đi ăn thôi mà. Có cô nào dại
dột rớ tới con đâu, lương lính tháng nào
sạch tháng đó, đi quanh năm ngày tháng, cưới
về nằm không ở nhà, tối ngày nghe mẹ càu nhàu
chắc mau tàn nhan sắc.
Thấy mẹ có vẻ buồn,
im lặng, Lâm kể tránh sang chuyện khác làm vui:
-
Mẹ à, chiều hôm qua đi tuần về, đến ngă
ba sông Đồng Nai, con cột chung ba quả lựu
đạn chống người nhái, ném xuống sông,
định kiếm vài con cá chẽm, hôm nay mang về cho
mẹ và làm quà bên nhà Phượng. Ai ngờ đâu trúng ngay
đàn cá sơn nhỏ bằng bàn tay, cá chết trắng
cả sông, cả triệu con, sóng đánh dạt vào hai bên
bờ sông, ánh nắng chiều phản chiếu, lấp
lánh sáng như hai viền bạc, dân chúng chung quanh đổ ra sông mang rổ, mang
thùng lượm cả buổi.
Mẹ dằn mạnh chén
cơm xuống bàn, đứng dậy mắng:
-
Tiên sư cha mày … trời ơi! … “ Ông tướng nhà trời” … hôm qua ngày
rằm tháng bẩy, lễ xá tội vong nhân, tao đi
lễ suốt ngày, mua thả
phóng sinh được hơn chục con chim sẻ. “Ông Tướng” ở ngoài sông
giết cả triệu con cá!!!
Đêm đó, anh ngủ mơ
màng trong tiếng chuông, tiếng mơ và tiếng mẹ
tụng kinh, có tiếng cầu xin của mẹ, có h́nh
ảnh cái “túi bùa” mẹ
đeo vào cổ anh ngày măn khóa.
***
Chuyến
hải hành cuối cùng và “tháng tư đen”
Khoảng giữa
tháng tư năm 1975. T́nh h́nh miền Trung rối
loạn, tin tức trên báo chí dồn dập về những
bi thảm của cuộc di tản ở Huế và
Đà Nẵng. Đà Nẵng rồi Ban Mê Thuộc đă
mất … Dân chúng Sài G̣n xôn xao
bàn tán với những tin đồn không rơ thực hư.
Chiến hạm của Lâm nhận lệnh ra khơi đi
trấn giữ quần đảo Trường Sa.
Khi dây số 2, số 3, số
4 rồi dây số 1 lần
lượt kéo về tầu, chiến hạm từ từ
tách bến. Đứng trên đài chỉ huy cao, Lâm thấy
dáng vợ bé nhỏ, chịu đựng, đứng
dưới cầu tầu, một tay vịn chiếc
Honda, một tay vẫy vẫy chiếc khăn trắng
từ biệt. Anh biết Yến
khóc, lần nào tầu rời bến mà Yến chẳng
khóc! mẹ vẫn kể, nó khóc mấy
ngày đêm. Bao nhiêu chuyến ra khơi từ
ngày cưới nhau là bấy nhiêu lần Yến khóc.
Chiến hạm xa dần, ra giữa ḍng sông, thủy thủ đứng
dọc theo thành tầu để chào bến. Con Tầu xuôi về hướng
Khánh Hội. Đi ngang nhà hàng Mỹ Cảnh, trên đài
chỉ huy Lâm nh́n qua ống nḥm lại thấy Yến,
Yến đứng trên nhà hàng Mỹ Cảnh bên mé sông
với chiếc áo dài xanh, vẫy vẫy chiếc khăn
trắng … Làm sao mà em chạy theo tầu anh
được! dù
em có chạy hết bến sông này th́ cuối cùng ḿnh
cũng phải xa nhau! anh sẽ ra với biển khơi, em ở
lại nhà với con với mẹ, với trăm mối
tơ sầu.
Lâm và Yến h́nh như đă linh cảm thấy có
điều ǵ bất lành trước ngày khởi hành. Nhưng không ngờ rằng, chuyến đi
ấy lại là chuyến đi định mệnh.
Con tầu rời bến rồi chẳng bao giờ trở
lại bến cũ như bao lần ra đi. Cả
tuần trước Yến vẫn âm thầm chuẩn
bị cho chồng như những chuyến ra khơi ngày
trước, những cây
thuốc lá, những thùng sữa, thùng ḿ, đường và
đậu đen, Lâm vẫn thích nấu chè để
ăn đêm! Có đêm không hiểu Yến
đă linh cảm thấy ǵ ở khúc quanh định
mệnh sắp đến?
nàng nửa
đùa nửa thật cụng sát mặt vào mặt anh,
như để nhắc nhở, nàng ngâm khe khẽ câu ca
dao:
Đi đâu cho
thiếp theo cùng
Đói no thiếp
chịu, lành lùng thiếp cam . . .
Lâm cũng đă cẩn thận
dặn ḍ:
-
Nếu Sài G̣n có biến em cố gắng đưa con và
mẹ ra Vũng Tầu, anh ở ngoài biển anh dễ
đón hơn, chiến hạm lớn vào sông khó khăn.
Hoặc nếu khẩn cấp, cố đem mẹ và các
con vào bộ tư lệnh Hải Quân, t́m các bạn anh giúp
đỡ, ra được đến biển chắc
chắn anh sẽ liên lạc được và ḿnh sẽ
gặp nhau.
Chiến Hạm từ
Trường Sa được gọi
về đảo Phú Quư, có tin Việt Cộng đă kéo
cờ trên đảo. Chiến hạm Lâm và vài chiến
hạm bạn kéo đến kẻ ô vuông trên đảo,
chuẩn bị hải pháo TOT. Cuối cùng
lệnh hủy bỏ, các chiến hạm phải rút ra xa
khỏi đảo. Ngày 27 tháng tư,
mấy chiến hạm kéo vào gần bờ hải pháo phi
trường Hàm Tân. Ban đêm nh́n vào bờ, thấy
“convoy” xe và tank Việt Cộng bật
đèn sáng di chuyển dài theo hương lộ 1 ven
biển, kéo về hướng Phước Tuy Vũng
tầu. Chiến hạm xin lệnh hải
pháo nhưng bị từ chối, tầu lui dần về
hướng
-
Mày có di tản hay đi đâu nhớ ghé nhà cho vợ con tao
theo với, ra tới biển sẽ liên
lạc sau.
Ngày
29, ghe thuyền di tản đầy đặc trên
biển. Máy bay trực thăng của đệ thất
hạm đội ra vào tấp nập. Thành
phố Vũng Tầu hỗn loạn, mọi người
đổ xô ra biển. Hạm phó và một sĩ quan
có gia đ́nh ở
Vũng Tầu xin cho ca-nô vào bờ t́m gia đ́nh
rồi mất tích luôn, không đón được. Cũng may, Lâm xin đi theo vào bờ, hy vọng rằng Yến,
mẹ và các con đă ra được Vũng Tầu,
nhưng không được chấp thuận.
10 giờ sáng ngày 30 tháng 4, radio trên
chiến hạm bắt được nhật lệnh
của Tướng Dương Văn Minh ra lệnh
đầu hàng trên đài phát thanh Sài G̣n. Đứng trên đài chỉ huy,
nước mắt Lâm chẩy dài, hết rồi! đă chặn mất đường về,
hết rồi! đời vơ nghiệp,
mộng hải hồ không c̣n nữa, nước mất, gia đ́nh
vợ con lư tán. Quân giặc tràn vào không biết bây giờ
Yến, mẹ và các con ra sao?
H́nh ảnh, quân phục, súng đạn, kiếm và các
kỷ vật nhà binh của con c̣n đầy ở nhà,
mẹ có tẩu tán cất dấu được không?
Chiến hạm
lừ đừ xuôi về hứng nam, lệnh hạm
trưởng muốn đem tầu xuống vùng bốn
vẫn c̣n kháng cự để chờ lệnh. Khi qua khỏi mũi Cà Mâu, ngài hạm
trưởng mới (tâm t́nh) cho biết là ngài đă
để vợ con ở
một đảo nhỏ ngoài
khơi gần Phú Quốc từ lâu, nên ngài xin đi công tác sớm,
khi chiến hạm c̣n trong
lịch tŕnh nằm bến để sửa chữa. Thật là một người Hạm
Trưởng tồi bại, mưu mô, xảo quyệt và
vị kỷ. Ngài Hạm Trưởng đă lừa
dối thuộc cấp cho đến giờ phút cuối
cùng, leo lên đến trung tá nhưng
chưa bao giờ ngài học môn lănh đạo chỉ huy.
Cuối cùng nhân
viên trên chiên hạm nổi loạn, buộc phải quay
mũi trở về Côn Sơn để nhập vào đoàn
tầu di tản. Hơn hai trăm thủy thủ
đoàn trong cơn ly loạn đă tan nát gia đ́nh, mất
vợ, mất con chỉ v́ một toan tính thấp hèn
vị kỷ của cấp chỉ huy. Cái xui của con
tầu, của
thủy thủ đoàn đă bắt đầu từ vài
tháng trước, khi vị hạm trưởng tiền
nhiệm tài giỏi, đức độ, luôn lo lắng
cho thuộc cấp đă bàn giao lại chức vụ cho
nguyên hạm trưởng để đi du học Hoa
Kỳ.
***
Cái
túi bùa trong đời tị nạn
Trước khi vào
hải phận Phi Luật Tân, chiến hạm phải
ngừng lại ngoài khơi cả ngày để tháo
vất đạn dược xuống biển. Tên và
số hiệu các chiến hạm bị sơn xóa
trước khi trao trả lại cho hải quân Hoa Kỳ
theo điều khoản của trương tŕnh M.A.P
(Military Assistance Program: quân dụng không sử dụng
phải được hoàn trả cho chính phủ Hoa Kỳ) . Lá quốc kỳ Việt
Khi gom góp ít kỷ vật mang theo, Lâm thấy cái túi bùa, nhớ đến
mẹ, anh bật khóc. Lần đầu tiên,
tự anh quàng cái dây bùa vào cổ. Nếu quả
thật có vị thần linh trong cái túi bùa này, chắc ngài
cũng phải cau mày nhăn mặt quở mắng:
-
Đồ khốn kiếp! . .
. đến
giờ phút cùng bí này, mày
mới nghĩ đến tao.
Lâm mở thử túi bùa thấy
bên trong có một tượng Phật nhỏ bằng nanh
heo rừng, tạc rất sắc nét, ám mầu nhang khói v́
đă thờ lâu trên chùa trước khi mẹ thỉnh
về, có ba lá bùa mầu vàng viết bằng chữ
Phạn mà anh không đọc được. Nhớ
lời mẹ, anh đốt một lá bùa, nói nhỏ:
-
Tôi chỉ cầu xin gặp được mẹ, vợ
và các con.
Trao trả chiến hạm cho
Hải quân Hoa Kỳ tại Subic Bay, Lâm rời tầu với
độc nhất một bộ quân phục, không lon, không
nón, một túi sách nhỏ với ít đồ lưu
niệm. Lâm, người tị nạn cô đơn, vô
tổ quốc, vô gia đ́nh. Quá khứ nḥa trong nước
mắt đau thương mất mát, tương lai th́ vô
định mịt mờ!
H́nh như có sức mạnh vô
h́nh nào đă níu kéo anh lại, khi anh thay bộ bà ba đen
định bước xuống ca-nô trở về bờ
từ Côn Sơn và sau này khi định theo
chiếc Việt Nam Thương Tín từ Guam về lại
Việt
Lâm đă gọi máy khắp
các chiến hạm bạn, nhắn tin tất cả các
trung tâm Hồng Thập Tự từ Subic Bay đến
Cả tháng lang
thang trong trại tị nạn tại
Sáng ra dọn
dẹp, bới đống tro tàn, Lâm thấy tượng
Phật c̣n đó, không cháy, chỉ bị đen nám, anh
lẩm bẩm hỗn xược: “Phật nướng”
rồi cạo rửa cất vào túi áo.
Những năm
đầu tị nạn, Lâm không tin có Chúa, có Phật, có
đấng tối cao hay có thần linh trên cơi đời
này. Anh sống âm thầm lặng lẽ.
Có một quyền lực linh thiêng nào đó vẫn
đẩy anh bước tới, bắt anh phải
phấn đấu để ngoi lên trong cái sứ sở
thiếu t́nh người này, phải đi làm nuôi thân,
đi học để t́m đường vươn lên.
Lâm ở chung pḥng với
người bạn hơi cùng hoàn cảnh, một
người đánh mất vợ con, một người
vợ bỏ ngay từ khi mới sang, khác nhau có một
điểm, Khanh có Chúa, có Đức mẹ, có đức
tin để sống, c̣n Lâm th́ không! Khanh ngoan đạo,
Lâm vô thần.
Sáng chủ nhật Khanh
chuẩn bị đi lễ, Lâm hay chui đầu ra
khỏi chăn gọi:
-
Khanh, đi lễ hả? . . . cho tao gửi lời thăm Chúa.
Lần nào anh cũng nhận
được câu chửi thân thương:
-
Tồ cha mày . ..
Thằng mất dậy!
H́nh như Khanh
không bao giờ biết giận, ngay cả những khi
đùa dỡn quá đà. Như một
lần đêm Noel, Khanh chuẩn bị đi lễ,
thấy thương bạn lủi thủi ở nhà
một ḿnh nên rủ, đi lễ nửa đêm với tao
cho bớt buồn, ở nhà làm ǵ.
Lâm cũng ngang ngược:
-
Không, tao tội nặng hai vai, Chúa thấy mặt tao
cũng phải nổi giận, lỡ chúa dựt đinh
được đá bỏ mẹ.
Chủ nhật rảnh rỗi,
Lâm hay đến chơi với ông bạn làm Mục sư
để hoạt động xă hội, đi xin
đồ dùng giường tủ, chở đến giúp những gia đ́nh
thuyền nhân vượt biển mới qua. Cho đến
một hôm ông khuyên nhủ:
-
Hăy t́m sự b́nh yên tâm hồn nơi Đức Chúa
Trời, ngài lắng nghe lời cầu nguyện của anh
…
Lâm
nổi nóng, phạng ngang không ngại
miệng:
-
Cám ơn mục sư, Phật với Chúa! hai
ông đang ngồi đánh bài cào với nhau, chẳng ông nào
nhớ đến tôi đâu! Phật c̣n đang ngồi
khoanh chân ṿng tṛn, đang nặn . .. tây, tây … chín nút, chín nút. Chúa th́ đă dang hai tay
… tao bù!.
Lâm
bực tức bỏ :
-
Tuần sau tôi bận không đến được,
sắp thi Final rồi.
Mỗi khi buồn Lâm hay
đến chơi với gia đ́nh cô em họ rất thân
như anh em ruột. T́m vui với không khí êm ấm của
gia đ́nh Lan, vui
đùa với các cháu cho bớt buồn.
Một
hôm Lan hỏi:
- Nghe Bác kể hồi ở nhà, bác có
thỉnh cho anh cái tượng Phật linh lắm mà, anh c̣n
không cho em mượn. Anh Khôi từ ngày qua đến
giờ, tối ngủ hay mê sảng, đêm nào cũng
bị ác mộng, toát mồ hôi ướt đẫm
cả gối, nhiều đêm bị mộng du, dậy đi lang thang khắp
nơi, sáng dậy em hỏi không biết ǵ cả. Nguy
hiểm lắm anh ạ. Chắc tại ngày xưa bắn
phá, ném bom giết nhiều Việt Cộng quá nên họ theo báo oán. Em
định mượn anh cái tượng Phật, em
dấu dưới gối của anh Khôi may ra anh ấy
khỏi bệnh.
Lâm
cười:
-
Em đúng là đàn bà! giết nhiều
Việt Cộng th́ đă sao? nếu mấy con ma Việt Cộng có sống dậy được
đi nữa, gặp mặt anh với anh Khôi th́ cũng
phải cắm đầu chạy … sợ bị giết
thêm lần nữa! Nhưng
nếu em muốn th́ anh cho, anh vẫn c̣n giữ ông “Phật nướng”. Sao
em giống mẹ anh thế! lúc nào cũng tin dị đoan, không thấy
anh sao, nhờ có ông Phật mà giờ này anh cù bơ cù
bất một ḿnh.
Rồi anh kể cho Lan nghe chuyện đốt bùa, đốt
tượng Phật khi bỏ nước ra đi.
Lan nhăn mặt mắng anh:
- Bác mà biết được th́
anh chết đ̣n. Tại sao anh không nghĩ rằng anh c̣n
may mắn hơn cả ngàn người khác, giờ này c̣n
trong tù Cộng Sản.
Hơn một năm sau, một
lần Lan nói:
-
Anh Khôi đă hết bệnh, bây giờ vui vẻ yêu
đời lắm, tụi em sắp mua nhà, hôm nào ăn tân gia anh nhớ đến chơi. Em đă bịt vàng cái tượng Phật của
anh, em đánh sợi dây chuyền, trả anh để anh
đeo.
Lâm cười:
- Em tin, em cứ giữ đi, anh cho em
đó.
***
Ngộ
Có con chim sâu mấy tuần
trước đến làm tổ ngay trên cành cam
trước cửa ra vườn. Lâm theo
dơi từ những ngày đầu, từ những cọng
rơm ngọn cỏ đầu tiên được tha
về. Sao làm tổ chênh vênh, thấp ngang tầm mắt,
lại ngay cửa kính sát lối đi vậy ḱa? Con chim bé
nhỏ này không biết sợ loài người hiểm ác hay
sao? Con chim bé nhỏ ơi, có
cần ta phụ giúp ǵ không? mà bàn tay con
người làm sao khéo léo để giúp mi làm cái tổ bé
như nửa quả trứng gà, xinh sắn gọn gàng như vậy! Con chim bé nhỏ
ơi, có cần sự che chở của ta không? Mà che chở làm sao
được! Bàn tay con người
không thánh thiện, không thay thế được bàn tay
tạo hóa đâu! Nếu ta
đụng vào cái tổ này, chắc chắn con chim bé
nhỏ này sẽ bỏ đi!
Lâm vẫn hàng ngày rón rén
đứng cách xa theo dơi. Con chim sâu
đẻ hai trứng nhỏ bằng hai hạt
đậu. Rồi trong tổ có hai con chim con, yếu
đuối quá, nhỏ bé quá, anh chỉ thấy
được hai cái mỏ bé xíu nhưng dài, lúc nào cũng
há ra chờ mẹ về cho ăn. Những
hôm mưa gió, anh thấy chim mẹ nằm im bên trên, mưa
ướt cả người. Lâm
nhẹ nhàng, cố gắng lợp cho miếng b́a ở
những cành cam bên trên để che mưa che nắng.
Một buổi sáng, sau trận giông băo đêm trước, một con chim
con đă rơi chết dưới đất! Rồi chim
con đủ lông đủ cánh, cả hai mẹ con đă bay
đi, để lại cái tổ trống không!.
Tháng tư, tiết xuân lành
lạnh, trong vườn hoa mơ, hoa đào, hoa mận
vẫn c̣n nở, chen lẫn với
những lộc non, những lá non xanh mướt.
Tạo hóa huyền diệu! phải có bàn tay mầu nhiệm nào tạo
dựng muôn vật trên thế gian này? Một đấng tối cao nào
đó, Đức Chúa Trời, Đức Phật hay Thượng
Đế? Măi
đến gần cuối đời, gần qua tuổi
năm mươi “Tri thiên mệnh” Lâm mới ngờ
ngợ thấy điều ấy. Cũng đành! Anh
có bao giờ mơ ước đến thiên đàng hay
niết bàn đâu! mà mơ cũng chẳng được! Anh
biết anh không có đức tin! Cứ để mai sau, lúc
chết trả hết tội lỗi một lần luôn
thể!
Hạnh phúc cho những ai có
đức tin!
Bây giờ Lâm đă có tất
cả, mẹ, vợ, các con và một đời sống
tạm gọi là sung túc. Nhưng tháng tư! tháng
tư nào cũng đem anh về với dĩ văng, dĩ
văng đau thương sầu thảm của “Tháng Tư
Đen” hai mươi bẩy năm về trước.
Vũ
Lâm