Vũ
Anh Khanh và Tha La Xóm Đạo
Lê
Thương
Tha La, trước năm 1975,
người dân Miền Nam đă nghe tên nầy qua các bản
nhạc “Tha La Xóm Đạo”, “Hận Tha La”, “Vĩnh Biệt
Tha La”. Tha La nằm trong vùng Trảng Bàng, nếu bắt
Tha La là một vùng đất
lành, màu mỡ do con kinh Vàm Trảng dẫn nước từ
sôngVàm Cỏ
Trong công cuộc chiến đấu
chống thực dân Pháp, thanh niên nam nữ Tha La đă nhiệt
tinh tham gia phong trào kháng chiến, họ ra đi không hẹn
ngày trở về và họ đă đền nợ nước
trên các chiến trường lửa đan khiến Tha La vắng
bóng người, buồn cô quạnh...rồi nhà thơ
Vũ Anh Khanh trong một lần lạc bước đến
Tha La đă cảm xúc tinh thần yêu nước chống
ngoai xâm của nam thanh nữ tú Tha La nên sáng tác bài thơ “Tha La Xóm Đạo” vào năm
1950.
“Tha La Xóm Đạo” là một bài
thơ dài 97 câu, viết theo lối hợp
thể, đoạn mở đầu là ngũ ngôn, rồi
chuyển sang tám chữ, sau đó thành kịch thơ và kết
thúc bằng hai câu thất ngôn. Lời thơ
giản dị, chân thành. Nhịp điệu
của bài thơ nhẹ nhàng như lời tâm t́nh đă làm
rung động tâm hồn của nhiều độc giả.
“Tha La Xóm Đạo” đă được
nhạc sĩ Dũng Chinh, cũng người Phan Thiết
phổ nhạc vào năm 1964. Sau đó một năm,
nhạc sĩ Sơn Thảo phổ thành bài hát mang tên “Hận
Tha La” và cũng trong năm này nhạc sĩ Anh Tuyền
phổ thành ca khúc mang tên “Vĩnh Biệt Tha La”. Ngoài
ra, soạn giả cải lương Viễn Châu cũng
đă phỏng theo ư tưởng của
Vũ Anh Khanh để viết ca khúc tân cổ giao duyên “Tha
La Xóm Đạo”
Bài Thơ “Tha La
Xóm Đạo”
Đây Tha La xóm
đạo
Có trái ngọt
cây lành
Tôi về
thăm một dạo
Giữa
mùa nắng vàng hanh.
Ngậm ngùi Tha La bảo:
- Đây rừng xanh rừng xanh,
Bụi đùn quanh ngơ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh.
Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.
Viễn khách
ơi!
Hăy dừng chân cho hỏi,
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng,
Đây Tha La một xóm đạo ven rừng,
Có trái ngọt, cây lành in bóng lá.
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót
lạ.
Ngày êm êm ḷng viễn khách bơ vơ!
Về chi đây? Khách hỡi? Có ai chờ?
Ai đưa
đón?
- Xin thưa, tôi lạc
bước!
Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
Không có ai chờ, ai đón tôi đâu!
Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
T́m hoa rụng lạc loài bên vệ cỏ,
Nh́n cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió,
Gạo rưng rưng, ngh́n hoa máu rưng rưng.
Ngh́n cánh hoa rơi, ḷng khách bỗng bâng khuâng.
Tha La hỏi:
Khách buồn nơi
đây vắng?
Không, tôi buồn v́ mây trời đây trắng!
- Và khách buồn v́ tiếng
gió đang hờn?
Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn,
Gió vi vút, gió rợn rùng, gió rít.
Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch.
Thôi hết rồi c̣n chi nữa Tha La!
Bao người đi thề chẳng trở lại
nhà.
Nay đă chết giữa chiến trường ly loạn!
Tiếng địch càng cao, năo nùng ai oán,
Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa
trưa,
Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa
xưa,
Ḷng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh.
Khách rùng ḿnh, ḷng ngẩn ngơ hiu quạnh.
- Thôi hết rồi! C̣n
chi nữa Tha La!
Đây mênh mông xóm đạo với rừng già.
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn
khách.
Khách bước nhẹ theo con đường đỏ
quạch,
Gặp cụ già đang ngóng gió bâng khuâng.
- Kính thưa cụ v́ sao
Tha La vắng?
Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng,
Nhẹ bảo
chàng:
“Em chẳng biết ǵ ư?
Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!
Người nước Việt ra đi v́ nước
Việt,
Tha La vắng v́ Tha La đă biết,
Thương giống ṇi đau đất nước lầm
than.”
Trời xa xanh, mây trắng ngoẹn ngàn hàng.
Ngày hiu quạnh. Ờ...ơ...hơ tiếng hát.
Buồn như gió lướt lạnh dài đôi khúc nhạc.
Tiếng hát rằng:
Tha La giận mùa thu,
Tha La hận quốc
thù,
Tha La hờn quốc
biến,
Tha La buồn tiếng
kiếm,
Năo nùng chưa!
Tha La nguyện hy sinh.
Ơ...ơ...hờ... có một đám chiên lành.
Qùy cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy.
Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy;
Lạy Đức
Thánh Cha!
Lạy Đức
Thánh Mẹ!
Lạy Đức
Thánh Thần!
Chúng con xin về cơi tục để làm dân...
Rồi...cởi trả
áo tu.
Rồi... xếp kinh
cầu nguyện.
Rồi... nhẹ
bước trở về trần...
Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!
Người hăy dừng
chân.
Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
Đất đă chuyển rung ḷng bao thế hệ.
Trời Tha La vần vũ đám mây tan.
Vui ǵ đâu mà tâm sự?
Buồn làm chi mà bẽ bàng?
Ơ...ơ...hơ,,,ờ...ơ...hơ... tiếng hát.
Rung lành lạnh ngâm trầm đôi khúc nhac.
Buồn tênh tênh, năo ḷng lắm khách ơi!
Tha La thương người viễn khách đi thôi!
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ,
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ.
Lá rừng cao, vàng rụng lá rừng bay...
Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
- Khi hết giặc, khách
hăy về thăm nhé!
Hăy về thăm
xóm đạo,
Có trái ngọt cây
lành.
Tha La dâng ngàn hoa gạo,
Và suối mát rừng
xanh.
Xem đám chiên lành thương áo trắng.
Nghe mùa đổi gió nhớ quanh quanh.
(Thơ Mùa Giải
Phóng – 1950)
Vũ Anh Khanh tên thật là Vơ Văn Khanh, có người
nói ông tên thật là Nguyễn Năm, sinh năm 1926 tại
Mũi Né, quận Hải Long, tỉnh B́nh Thuận. Vũ
Anh Khanh là một cây bút chuyên
nổi bật nhất là các bài “Chiến Sĩ Hành”
và bài “Tha La Xóm Đạo”. Các tác phẩm của Vũ
Anh Khanh rất có giá trị, tiêu biểu cho ḍng văn
chương thời kỳ kháng chiến chống thực
dân Pháp ở
Trước năm 1945, ông vào Sài-G̣n làm báo và viết
văn. Sau ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, ông cùng hoạt
động với Lư Văn Sâm, Dương Tử Giang, Thẩm
Thệ Hà...trong nhóm Văn Học Yêu Nước ở
Sài-G̣n. Năm 1950, ông bị chính quyền Sài-G̣n lùng bắt,
ông trốn thoát ra chiến khu.
Ngày 20-7-1954 Hiệp Định
Genève được kư kết, chia cắt nước Việt
Nam làm hai, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Khoảng
một triệu người dân Miền Bắc ồ ạt
di cư vào Miền Nam, đổi lại
Lê Thương
Richmond - Virginia - USA