Đây là sự thật về cuộc kháng chiến chống Pháp dành độc lập (1946-1954)

của bọn Hồ Chí Minh và đảng CSVN

 

CHINA AND THE FIRST INDOCHINA WAR 1950-1954

(TRUNG QUỐC VÀ CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG THỨ NHẤT 1950-1954)

 

Chen Jian

Lư Vũ lược dịch

Nguyễn Văn Chức phụ dịch

( Trích đăng nguyệt san Con Ong Việt số 52)

Bài  4  (tiếp theo kỳ trước)

 

 

Lời dẫn nhập (bài 4) của LS Nguyễn Văn Chức

 

            Như chúng ta đă biết, tháng 7 năm nay (2004), VC tổ chức  lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Và như chúng ta cũng đă biết, lễ kỷ niệm đă được nhân dân nh́n bằng con mắt thờ ơ, điều mà chính bạo quyền VC cũng đă  không ngờ.

 

            Qua 3 bài trước, chúng ta đă có dịp nh́n tận mặt sự thật: cuộc chiến tranh  đánh  Pháp dành độc lập (1946-1954) đă được làm bằng xương máu của nhân dân Việt Nam, “v́ độc lập và hạnh phúc của tổ quốc Việt Nam”. Chúng ta cũng đă nh́n thấy tội ác của Hồ Chí Minh và đảng CSVN. Tội ác đă lừa bịp  nhân dân Việt Nam. Tội ác đă dùng xương máu và quê hương Việt Nam để làm nghĩa vụ  quốc tế vô sản. Tội ác đă xô đẩy tổ quốc Việt Nam vào thảm cảnh (đói khổ, lạc hậu, và ngục tù)  từ hơn 50 năm nay. Tội ác ấy hiện nay vẫn tồn tại. Tồn tại  bằng  bạo lực. Tồn tại với lá cờ máu..

 

             Tôi có đọc  hồi ức của Vơ Nguyên Giáp. Ông rất thận trọng, đề cao Hồ Chí Minh và đảng CSVN, nhưng tránh né không nói đến yếu tố quyết định của  chiến thắng Điện Biên Phủ. Yếu tố đó, là:  Trung Quốc và Mao Trạch Đông. Yếu tố đó, là : Hồ Chí Minh và đảng CSVN chỉ là tay sai làm nhiệm vụ quốc tế vô sản.

 

            Tiện đây, chúng ta cũng nên suy nghĩ về hàng ngũ tướng lănh của Việt Cộng. Chúng ta phải buồn mà nói: họ hèn lắm. Sau khi Miền Nam bị thôn tính, họ chỉ biết cúi đầu v́ miếng cơm manh áo, hoăc v́ những quyền lợi riêng . Họ không dám đối diện với sự thật , họ không dám nói lên một lời cho thân phận cùng cực của đất nước. Họ  cúi đầu trước đảng và nhà nước.  Họ bị giết, như  Hoàng Văn Thái (đại tướng xui gia với Vơ Nguyên Giáp), như Lương Trọng Tấn (đại tướng). Họ  bị tù,  như Chu văn Tấn (trung tướng), như Nguyễn Kim Giang (thiếu tướng) vân vân. Toàn thể hàng tướng lănh và bộ đội Việt Cộng, chỉ biết cúi đầu im lặng.

 

            Riêng Vơ Nguyên Giáp, đă bị bọn Lê Đức Thọ,   Duẩn hạ từng công tác và làm nhục. Từ một đại tướng tổng   lệnh  bộ đội, ông bị hạ xuống làm chủ tịch uỷ ban  hạn chế sinh đẻ. Ông cúi đầu an phận .V́ vậy trong nhân gian đă có những câu ca dao đời:

 

“Ngày xưa đại tướng công đồn, bây giờ đại tướng canh lồn cản cu”

Và:

“Ngày xưa đại tướng cầm quân, bây giờ đại tướng tụt quần chị em”.

 

Quá hèn hạ, và quá khiếp nhược.

 

            Chúng ta không quên đám ma Trần Độ cách đây ba năm. Ṿng hoa phúng điếu của ông  với năm chữ “đại tướng Vơ Nguyên Giáp” đă bị Vũ Măo (chủ tịch uỷ ban thường vụ quốc hội VC) kiểm duyệt bóc đi hai chữ “đại tướng” trước mặt Vơ Nguyên Giáp và công chúng..Vơ Nguyên Giáp đă không dám có phản ứng. Quá hèn hạ, và quá khiếp  nhược.

 

            Bộ đội Việt Cộng, nói chung, cũng thế. Quá hèn hạ, quá khiếp nhươc .Trong suốt bao nhiêu năm ,  nhân dân ta trong nước  chống lại ách thống trị bạo tàn của đảng và nhà nước, họ chỉ biết  cúi đầu an phận Họ không dám ngóc đầu lên. Người ta không ghi nhận đuợc một hành động hoặc một lời chống đối nào của họ. Họ quá hèn hạ, quá khiếp nhược..

 

            Như một hoài nịêm, tôi chợt nhớ đến nhà văn Dương Thu Hương. Trong bá Tự Bạch viết cách đây hơn 13 năm (ngày 12 tháng 8/1991), bà viết về các đảng viên CSVN như sau:

            “Đa số những đảng viên CS b́nh thường là những con người nhẫn nại và khổ ải [...] sẵn sàng hy sinh lợi ích của  bản thân hay gia đ́nh ḿnh để chiến đấu v́ một ngày mai tươi sáng cho toàn thể dân tộc và nhân loại.”

            Mặc dù kính trọng bà, tôi đă phải lên tiếng trả lời. Tôi đặt vấn đề đối với các  đảng viên  CSVN cũng như  đối với các anh em  bộ đội VC.  Trong quyển Thế Kỳ của tôi (xuất bản năm 1999) tôi viết:

            “Sự hy sinh gọi là cao cả của họ đă đem lại được ǵ cho quê hương và cho dân tộc VN? Hỏi, tức là trả lời.

 

            Sự hy sinh  cao cả của họ đă giúp đảng CSVN: hoàn thành nghĩa vụ quốc tế vô sản bằng xương máu VN, tàn phá quê hương VN một cách khủng khiếp về vật chất và đạo lư, tước đoạt quyền làm người  cuả nhân dân VN, xiềng xích cả một dân tộc, và cắt cánh cả một dân tộc, Hiện nay,Việt Nam là mảnh đất nghèo khổ và lạc hậu vào bậc nhất thế giới. Hèn hạ như tên Nguyễn Hữu Thọ kia mà cũng đă phải thốt lên: ”Trên hành tinh vào những năm cuối thế kỷ 20, Việt Nam xếp vào hàng những quốc gia nghèo nhất   (Tạp Chí Cộng Sản, Hà nội, số 3 năm 1989).

 

            Cho nên, xin đừng kể công, xin đừng ca ngợi những đảng viên CS nữa. Đừng làm nhục họ nữa. Họ đă uổng phí một đời. Họ đă bị lừa bịp. Họ đă bị lùa vào mê lộ, như một đàn súc vật trước mũi tên của người thợ săn. Họ đă chết, đă bị  hy sinh, như những con thiêu thân mù loà.”

 

            Tôi viết đúng. Đúng với lịch sử, đúng với  thực tiễn. Đảng viên CSVN cũng như bộ đội Việt Cộng an phận lắm, hèn hạ lắm, khiếp nhược lắm, sợ từ một tên chính uỷ hạng bét,  như người tử tù sợ máy chém. Hiện nay, cũng như từ hơn nửa thế kỷ nay, họ đă làm ǵ, đứng trước thảm cảnh của đất nước? Không dám mở miệng  nói lên một lời, dù chỉ là một lời thôi. Thật là đáng buồn. Và đáng thương.

 

            Anh em QLVNCH th́ khác.  Cuộc chống cộng của Người Việt Tỵ Nạn từ gần ba mươi năm nay, với những chiến thắng huy hoàng của hải ngoại ngày hôm nay sẽ không thể có, nếu vắng bóng các anh em. Các anh em lúc nào cũng có mặt để cùng với đồng bào hải ngoại phất cao  ngọn cờ chính nghĩa của dân tộc,  đấu tranh cho nhân quyền dân chủ tại quê nhà, đồng thời vạch mặt những tên  tay sai Viêt Cộng tại hải ngoại. Vụ Trần Trường năm 1999 tại Bolsa chỉ là một thí dụ.

 

            Tôi vừa đi ngoài đề chăng?

 

Mời quư vị độc giả đọc  Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất1950-1954” (kỳ 4)  tài liệu đă được giới hàn lâm thế giới coi là vô cùng quư  giá của Chen Jen

 

 

* * *

 

 

MẶT TRẬN VĨNH YÊN,MẠO KHÊ VÀ NINH B̀NH

 

            Từ cuối tháng 12/1950 đến tháng 6/1951 Việt Minh phát động ba chiến dịch. Chiến dịch một (chiến dịch  Trần Hưng Đạo), tại Vĩnh Yên, nằm ở phía bắc Hà Nội khoảng 30 cây  số. Chiến dịch 2 (chiến dịch Hoàng Hoa Thám), taị vùng Mạo Khê gần Hải Pḥng. Chiến dịch 3 ( chiến dịch Quang Trung), tại vùng Ninh B́nh.

 

             Vơ Nguyên Giáp tung vào ba chiến trường ấy những  đơn vi thiện chiến nhất, trong đó có sư đoàn 308 (đuợc gọi là sư đoàn thép), với hy vọng  cuộc tổng phản công sẽ đưa Việt Minh tiến gần hơn  đến chiến thằng cuối cùng. Nhưng trước sức kháng cự quyết liệt của lực lượng pḥng thủ  Pháp được trợ lực bởi pháo binh hùng hậu , Việt  Minh đă thất bại thê thảm, và không thu hoạch đuợc những kết quả đáng kể.

 

            Khoảng giữa năm 1951, Vơ Nguyên Giáp đă phải huỷ bỏ kế hoạch tấn công thẳng vào các đồn bót của Pháp trong miền Trung Châu sông Hồng Hà. Bộ tham mưu cao cấp của Việt Minh và những cố vấn Tầu của họ đă phải duyệt xét lại toàn bộ chiến lược.

 

            Cùng lúc ấy, quân Pháp hy vọng mở rộng chiến thắng. Họ vừa tiếp tục củng cố các tuyến pḥng thủ ở vùng trung châu Bắc Việt, vừa mở những cuộc tấn công vào Ḥa B́nh, cứ điểm chiến lược nằm giữa trục giao thông Bắc-Nam của Việt Minh. Nếu chiếm  được Hoà-B́nh, Pháp sẽ mở được một hành lang thông suốt từ Hải Pḥng sang Hà Nội, từ Ḥa –B́nh sang Sơn La và cắt đứt mọi trục giao thông Bắc Nam của Việt Minh. Chưa kể những thuận lợi khác.

 

               Vơ Nguyên Giáp vội vă tham khảo với La Quư Ba và Deng Yifan (lúc đó Vị Quốc Thanh và Mei jiashen đă về Tầu dưỡng bệnh).

            Theo chỉ thị của Quân ủy Trung Quốc, Deng đề nghị Việt Minh  nên đương đầu với Pháp bằng những trận đánh lưu động  mức nhỏ hoặc trung b́nh .  La Quư Ba c̣n đi xa hơn, họ La  khuyến cáo Việt Minh phải bảo vệ Hoà B́nh bằng mọi giá, chẳng những thế c̣n phải quấy phá các vùng hậu cứ Pháp bằng du kích chiến và tái lập những căn cứ du kích.

 

            Ủûy Ban trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam (UBTU/DLDVN) và Bộ Tư Lệnh Tối Cao của Việt Minh (BTLTC/VM) thận trọng điều nghiên những khuyến cáo này.

 

            Cuối tháng 11 Việt Minh khởi sự  một nỗ lực toàn diện nhằm đập tan cuộc tấn công cuả Pháp. Việt Minh huy động bốn sư đoàn bảo vệ Ḥa B́nh, cùng lúc, tung hai sư đoàn 316 và 320 vào các vùng hậu tuyến Pháp.

 

            Cuộc phản công của Việt Minh khởi sự vào đầu tháng 12/1951 để khuấy phá đánh du kích.Việt Minh bắt đầu phản công từ đầu tháng 12 năm 1951 bằng du kích chiến. Sau ba tháng gặp nhiều khó khăn, Giáp và các lực lượng của ông ta đạt được thắng lợi. Họ đă đẩy lui được cuộc tấn công của Pháp, giữ vững  Ḥa B́nh, và củng cố thế chiến lược toàn bộ cuả họ..

 

   Hơn bao giờ hết, các Cố vấn Trung Cộng nh́n thấy tầm quang trọng của du kích chiến ở các vùng hậu cứ cuả địch. Lúc đó La Quư Ba cầm đầu phái Bộ Cố vấn , v́ tướng Wei Guoqing đă về nước dưỡng bệnh. Họ La khuyến cáo Việt Minh phải tính đến truyện  mở rộng chiến tranh ở vùng đất rộng lớn ở  Tây Bắc Việt Nam , như vậy t́nh h́nh chiến tranh toàn bộ ở Đông Dương sẽ có thể có lợi cho hơn cho Việt Minh .

 

 VAI TR̉ CHIẾN LƯỢC CỦA CHIẾN ĐỊCH TÂY BẮC.

 

             Đầu năm 1952, sau nhiều tháng điều nghiên t́nh h́nh chiến sự,  Ủy Ban Cố Vấn Trung Quốc (UBCVTQ) gửi hai bản phúc tŕønh cho Việt Minh.

 

            Thứ nhất  bản lượng định tương quan ta-địch ở vùng Việt Bắc cùng nhiệm vụ và sách lược của chúng ta”. Thứ hai là bản hoạch định chiến lược cho năm 1952. UBCVQS/TC  đề nghị Việt Minh phát động một chiến dịch quân sự mới ở vùng Tây Bắc Bắc Việt. Các cố vấn Tầu tin rằng những chiến lược này sẽ bảo vệ hữu hiệu hơn vùng giải phóng của Việt minh tại Tây Bắc VN, đồng thời tạo bàn đạp chiến lược cho các cuộc tấn công trong tương lai.

 

            Ngày 16 tháng 2 năm 1952, UBCVQS/TQ đề nghị BTLTC/VM (Bộ Tư Lệnh Tối Cao VM) nên tập trung vào du kích chiến, chỉ mở các cuộc tấn công nhỏ trong năm 1952, để các lực lượng chính quy có th́ giờ chỉnh đốn nội bộ, bổ sung quân số trước khi đủ điều kiện khởi sự chiến dịch Tây Bắc. Cùng ngày đó. La Quư Ba đặt tiêu chuẩn như sau. Nửa đầu năm 1952: Việt Minh phải rèn cán chỉnh quân. Nửa cuối năm 1952, Viêt Minh phải càn quét địch khỏi Sơn La, Lai Châu và Nghĩa Lộ ( tất cả đều nằm ở vùng Tây Bắc VN) để củng cố sự kiểm soát trong vùng. Sang năm 1953, sẽ tiến quân chiếm trọn miền Tây Bắc Việt nam, để từ đó, tấn công Thượng Lào.

 

            Quân Ủy Trung Quốc đồng ư ngay với kế hoạch nầy. Lưu Thiếu Kỳ đánh điện cho biết: việc giải phóng Lào là rất quan trọng. Đảng CSVN cũng hân hoan chấp nhận toàn diện kế hoạch. Ngày 18 tháng 3 năm 1952. Bộ Tư lệnh Việt Minh ra quyết nghị: chiến dịch Tây Bắc sẽ là một trong ba nỗ lực lớn của năm 1952. (Hai nỗ lực khác là rèn  quân chỉnh cán và đánh du kích  các hậu cứ của dịch)

 

            Tháng 4 năm 1952, Bộ Chính Trị Đảng Lao Động VN (BCTĐLĐVN) chính thức cho khởi sự chiến dịch Tây Bắc. Hồ Chí Minh chấp nhận để cố vấn Trung Quốc được cầm quân trong chiến dịch này.

 

             Ngày 14 tháng 4 năm 1952 La Quư Ba báo cáo lên quân ủy Trung Quốc (QUTQ) sơ khởi cuả kế hoạch. La cho biết các cuộc tấn công vào các tỉnh ở Tây Bắc sẽ được khởi sự vào giữa tháng 9 năm 1952. Quân Việt Minh sẽ đánh thẳng vào tỉnh Nghiă Lộ, vùng sát cận căn cứ Việt Minh tại Việt bắc, rồi sau đó sẽ đánh xuống Sơn La. Sau khi đă giải phóng gần hết  vùng Tây Bắc Bắc Việt trong năm 1952, Việt Minh sẽ chiếm Lai Châu trong năm 1953.

 

            Ngày 19 tháng 4, QUTQ (Quân Uỷ Trung Quốc tại Bắc Kinh) đánh điện chấp thuận kế hoạch do La đệ tŕnh.V́ dự đoán là cuộc đánh chiếm Nghĩa lộ sẽ vô cùng gay go nên QUTQ khuyến cáo La phải điều nghiên  t́nh h́nh cẩn thận trước khi mở chiến dịch.

 

            La Quư Ba và Mei Jiasheng cho điều nghiên thật kỹ t́nh h́nh Tây Bắc, để sau đó, vào ngày 11 tháng 7 năm 1952 đánh điện cho Quân Ủy (Trung Quốc) xin được thực hiện chiến dịch Tây Bắc theo hai giai đọan. Giai đoạn một: dùng hai sư đoàn để chiếm Nghĩa Lộ đồng thời tiêu diệt các toán Nhảy Dù Pháp tới cứu ứng. Giai đoạn hai, tung ba trung đoàn tấn công Sơn La trong khi cử ba Trung Đoàn khác phối hợp cùng hai Trung Đoàn đă có mặt ở Phú Thọ tiến chiếm Lai Châu. Phái Bộ Cố vấn cho rằng nếu thực hiện tốt kế hoạch đó, Việt minh sẽ làm chủ toàn diện vùng Tây Bắc Bắc Việt vào cuối năm 1952. Để đạt yêu cầu của Việt Minh. Luo và Mei xin Bắc Kinh cho gửi quân đội nhân dân Trung quốc từ Vân Nam sang phối hợp với các lực lượng Việt Minh, để cùng đánh chiếm Lai Châu.

 

   Ngày 22 tháng 7, UBTU/DCSTQ (Uỷ Ban Trung Ương Đảng CS Trung Quốc) gửi điện văn phúc đáp: v́ vấn đề nguyên tắc, Bắc Kinh không thể gửi quân sang chiến đấu trục tiếp ở VN. Tuy nhiên UBTU/DCSTQ hứa sẽ cho dàn bộ đội Trung Quốc dọc các vùng Hekuo và Jinjie thuộc tỉnh Hồ Nam, sát biên giới Hoa-Việt, để làm thế ỷ dốc cho Việt Minh. UBTU/DCSTQ cũng chỉ thị Phái Bộ Cố Vấn phải triệt để áp dụng chiến lược ‘tập trung lực lượng để thanh toán các mục tiêu, cái dễ đánh trước, cái khó đánh sau ”. Theo ư kiến UBTU/DCSTQ th́ Việt Minh phải chiếm xong Nghĩa Lộ mới có thể tính đến chuyện thanh toán toàn thể khu vực Tây Bắc Bắc Việt. Quân Ủy trung Quốc cũng lưu ư phái bộ cố vấn là các lực lượng Việt Minh c̣n thiếu kinh nghiệm tấn công, chưa nên vội tính đến chuyện chiếm Tây Bắc vào cuối năm 1952 mà chỉ nên mở rộng chiến tranh theo chính sách tầm ăn dâu .

 

            Đầu tháng 9, BCT/DLDVN (Bộ Chính Trị Đảng Lao Động VN) ra quyết nghị thi hành chiến dịch Tây Bắc theo tiêu chuẩn chỉ đạo của Quân Ủûy Trung Quốc.

 

 

(xin xem tiếp kỳ sau, kỳ 5:  Chiến Dịch Thượng Lào)