PRAVDA
Nguyễn Văn Chức
(Trích đăng từ Nguyệt
San Con Ong Việt số 106 tháng 8,2009)
Chú thích của tác
giả: Pravda,
tiếng Nga, nghĩa là: sự thật. Năm 1912, bọn
bôn-sơ-vích đă dùng chữ pravda đặt tên cho một
tờ báo tranh đấu. Năm 1917, khi chúng cướp
được chính quyền, tờ Pravda trở thành cơ
quan ngôn luận chính thức của đảng cộng
sản Nga. Dưới chế độ cộng sản,
ở Nga chỉ có hai tờ báo chính thức. Tờ Pravda
của đảng, và tờ Isvestia (nghĩa là: tin tức)
của nhà nước. Dân chúng Nga đă chế diễu
rằng: “Không có sự thật trong Pravda và không có tin
tức trong Isvestia”.
Danh từ Pravda
hiện nay được mọi người hiểu là
“Sự thật bôn-sơ-vích”, tức là sự thật
bị bóp méo, xuyên tạc, bịa đặt
Tôi về đến nhà đă thấy chiếc xe mô-tô đen của trung sĩ Ấn đỗ trước cửa. Ấn giơ tay chào, đưa cho tôi bức thơ của ṭa án Mặt Trận, và yêu cầu tôi đọc ngay.
Phong b́ đóng dấu “tối mật”. Tôi ngắm nghía giây lát, rồi xé ra, bức thơ bên trong chỉ vỏn vẹn mấy ḍng chữ đánh máy, nhưng tôi đă đọc rất lâu. Tôi kư vào bản sao, rồi đưa lại cho Ấn.
Ấn có chào tôi hay không, và chiếc xe rồ máy lúc nào, tôi cũng không để ư. Tôi đang bận nghĩ đến hắn... Sáng mai, đúng 5 giờ 30 hắn sẽ bị hành h́mh.
*
Cách đây một năm, luật sư đoàn chỉ định tôi biện hộ cho hắn trước ṭa án Mặt Trận về tội phản nghịch và toan cố sát: hắn là tên đặc công đă bị bắt trong khi đặt chất nổ tại đường Tự Do. Theo luật hắn có thể bị tử h́nh.
Sau khi xem hồ sơ, tôi vào nhà lao gặp hắn. Đây là một thói quen nghề nghiệp và cũng là một cái thú. Nói chuyện với những tử tù, thường phạm hay chính trị phạm, đôi khi hấp dẫn hơn đọc một quyển tiểu thuyết trinh thám bằng tranh.
Tôi ngồi trong pḥng đợi, nh́n ra vạt sân nắng bên kia hàng chấn song sắt, rồi chợt nhớ đến Nguyễn Văn Trọi (1). Trước đây, Trọi cũng đă nói truyện với tôi trong căn pḥng này; y khóc như một đứa trẻ, thỉnh thoảng đưa hai ngón tay lên vắt nước mũi rồi quẹt xuống gầm bàn. Trọi c̣n trẻ, nhưng nét mặt già như người bốn mươi.
Hắn trẻ hơn Trọi, mới hai mươi tuổi. Khi nhân viên nhà lao dẫn hắn đến “gặp luật sư” miệng hắn c̣n nhai nhóp nhép, h́nh như là bánh ḿ. Người hắn sặc mùi dầu khuynh diệp. Hắn khép nép ngồi xuống một cái ghế, rồi chăm chú nh́n tôi. Lúc ấy tôi mới để ư đến cái đầu húi cua và khuôn mặt non nớt của hắn. Khác hẳn với tấm h́nh đăng trên các báo: tóc dài bù xù, mặt nhăn nheo như mang đầy thẹo. Tôi mỉm cười hỏi:
- “Em vừa húi tóc?”. Hắn gật. Tôi lại hỏi:
- “Em là Trương Văn Đầy?”. Hắn gật.
- Em có bí danh Sáu Nhỏ, Hai Gà, Năm lựu Đạn, có phải vậy không?
Hắn gật.
- Em bị bắt trong khi đặt chất nổ tại đường Tự Do, có phải vậy không?
Hắn gật.
Tôi nói cho hắn biết:
- Tôi là luật sư sẽ căi cho hắn trước ṭa, tôi vào gắp hắn để t́m hiểu thêm về tội phạm. Và tôi yêu cầu hắn kể lại tất cả sự việc từ đầu đến cuối, để giúp tôi phối kiểm lại hồ sơ.
Hắn nh́n tập hồ sơ trên bàn, rồi nh́n ra ngoài sân rất lâu như đang suy nghĩ lung về một vấn đề. Tôi cũng nh́n hắn, và chợt thấy hắn dễ thương. Một lúc sau, hắn vẫn ngồi yên, tôi hỏi:
- “Khi lấy cung, người ta có tra tấn hoặc hăm dọa ǵ em không?”.
Hắn mở to mắt nh́n tôi, tôi lại giục:
- “Em nên kể lại tất cả sự việc, từ lúc được móc nối cho đến khi bị bắt, bị hỏi cung. Em kể lại hay không đó là quyền của em, không ai bắt buộc em. Em cũng có thể từ chối không nhận tôi là luật sư của em và chọn một luật sư khác. Đó là quyền của em”.
H́nh như tôi c̣n nói nhiều nữa; tôi muốn “tới gần hắn”. Tôi chờ đợi hắn chấp nhận nói chuyện với tôi.
Hắn nh́n tôi, tỏ vẻ dè đặt. Tôi đợi một lúc khá lâu, rồi lại hỏi:
- “Tất cả những điều em cung khai trong hồ sơ này đếu là sự thật, có phải vậy không?”. Hắn gật đầu một cách thản mhiên.
Bên ngoài, vạt nắng đă thu hẹp lại ở một góc tường bao quanh cái sân nhỏ. Tiếng người gọi đi thăm nuôi, tiếng quát tháo ḥ hét, tiếng chửi thề, đă bắt đầu thưa thớt. Tôi không đeo đồng hồ, và trong pḥng đợi cũng không có đồng hồ. Nhưng tôi đoán lúc đó khoảng bốn giờ chiều, nghĩa là gần hết giờ thăm nuôi phạm nhân. Riêng tôi, v́ là luật sư, có thể nói chuyện với thân chủ cho đến 5 giờ. Khổ một nỗi, thân chủ lại không muốn nói chuyện với tôi. Tôi đành phải làm cái việc bất đắc dĩ của nghề nghiệp, là tóm tắt hồ sơ và đọc những điểm quan trọng cho thân chủ nghe, để thân chủ hoặc xác nhận, hoặc sửa chữa, hoặc chối bỏ.
Hồ sơ hắn dầy gần trăm trang đánh máy, gồm phúc tŕnh, điều tra và thẩm vấn của hai cơ quan an ninh. Thư kư của tôi đă chép độ hai mươi trang quan trọng nhất. Riêng tôi đă dành trọn một ngày ở ṭa án mặt trận để đọc lại toàn bộ hồ sơ và ghi chú thêm. Cả một ngày như vậy phần v́ lương tâm nghề nghiệp phần v́ tính ṭ ṃ cố hữu. Trong vụ án chính trị cuối thời nhà Ngô, tôi đă tiêu phí cả tuần lễ để đọc và suy nghĩ về những lời khai của những bị can. Nhờ đó, tôi hiểu được phần nào cái uyên nguyên đă khiến một bị can tên tuổi tự vận trong đêm trước ngày ṭa xử. Cái chết của nhân vật này đă gây chấn động trong và ngoài nước lúc đó (2). Riêng bị can Phan Quang Đán đă hành động khác. Suốt phiên xử, ông hiền lành như một con trừu non. Có lúc, con trừu ấy đă khóc thảm thiết (3).
Tôi giở hồ sơ hắn ra và bắt đầu đọc.
Hắn sinh tại G̣ Dầu Hạ, bố vô danh. Mười lăm tuổi, hắn mồ côi mẹ và được người chú mang lên làm công cho một tiệm sửa xe vespa tại đường Trương Minh Giảng Sài G̣n. Trong thời gian sống ở Sài G̣n, hắn quen với một tên Tư, tên này xây dựng hắn và gửi hắn vào bưng học tập. Sau bốn tháng, hắn trở về Sài G̣n hoạt động trong tổ đăïc công của tên Tư. Một ngày trước khi bị bắt, hắn được tên Tư đưa về ăn uống tại hẻm đường Nguyễn Huệ. Rồi hai người thả bộ ra đường Tự Do để quan sát địa điểm hành động. Đó là một cái “bar” Mỹ mà hắn đă từng đi ngang qua nhiều lần. Chiều hôm sau, một buổi chiều thứ bẩy, tên Tư đem về hai cái bọc, mỗi cái đựng bốn kư thuốc nổ và bộ phận nổ chậm. Tên Tư gài bộ phận, rồi đặt cái bọc thứ nhất trong thùng một chiếc vespa màu xanh. Cái bọc thứ hai được đặt trong thùng một chiếc vespa màu trắng, hai người đi cách nhau độ ba mươi thước. Hắn có nhiệm vụ phá cái “bar” Mỹ đă quan sát chiều hôm qua; tên Tư có nhiệm vụ phá cái “bar” Mỹ khác gần khách sạn Eden Rock cuối đường Tự Do. Khoảng mười phút sau hắn tới ngang cái “bar”. Hắn ngừng xe lại, c̣n tên Tư tiếp tục đi về phía cuối đường. Hắn xuống xe, nhắc chiếc xe lên lề đường, rồi dắùt chiếc xe về phía cái “bar”. Theo chỉ thị của tên Tư, hắn sẽ nghếch chiếc xe sát bờ tường cạnh cái “bar” rồi bỏ đi. Tên Tư cũng cho hắn biết: quả ḿn sẽ nổ đúng 6 giờ. Hắn không đeo đồng hồ, nhưng hắn biết chắc hắn c̣n nhiều th́ giờ, ít nhất là 15 phút để thi hành phận sự. Hắn lấy chân đạp vào chiếc cần sắt, kéo ngược chiếc xe lên, dựng sát bờ tường ngay cạnh cửa “bar”. Hắn chưa kịp bỏ đi th́ người cảnh sát đứng bên kia đường thổi c̣i và ngoắc tay làm hiệu cho hắn dắt đi chỗ khác. Hắn đâm ra lúng túng và trong lúc hạ cần xe xuống, hắn làm đổ chiếc xe. Hắn h́ hục dựng chiếc xe lên. Người cảnh sát bên kia đường lại thổi c̣i. Hắn hốt hoảng... chiếc xe trở nên quá nặng đối với hắn... Hắn sẽ phải đứng lên, hắn sẽ phải dắt đi chỗ khác... và... hắn chợt nhớ tới qủa ḿn... quả ḿn sẽ nổ banh xác hắn. Hắn không kịp nghĩ thêm, hắn bỏ chạy. Hắn chạy ngược về phía Thành Lễ. Và hắn đă bị bắt trước tiệm kem đầu đường Nguyễn Huệ. Sau đó chừng 20 phút, cảnh sát lục soát chiếc xe và đă khám phá ra quả ḿn. Theo phúc tŕnh của cảnh sát th́ bộ phận nổ chậm bị hư, nếu không, quả ḿn đă nổ vào lúc 5:30, nghĩa là lúc hắn đang lúng túng với chiếc xe. Trong hồ sơ, hắn nhận hết tội lỗi, không một lần nào hắn chối tội hoặc phản cung. Hắn có vợ và một đứa con nhỏ.
Tôi đọc hồ sơ thật chậm, thỉnh thoảng ngước mắt lên nh́n hắn, chờ đợi ở hắn một phản ứng, một lời nói. Nhưng tôi đă đọc hết ḍng chót, mà hắn vẫn ngồi bất động, đôi mắt nh́n xuống mặt bàn. Có lẽ hắn không nghe tôi đọc.
Tôi muốn hỏi hắn về nhiều điểm trong hồ sơ, nhất là về tên Tư. Nhưng lúc đó nhân viên nhà lao bước vào, cho tôi biết chỉ c̣n đúng 5 phút với hắn. Tôi nh́n ra ngoài, thở dài. Mảnh sân đă hết nắng. Khi sấp hồ sơ bỏ vào cặp tôi vô ư làm rớt tấm ảnh của thằng con trai tôi, nó mới được 1 năm. Tôi chợt nhớ ra rằng hắn cũng có một đứa con c̣n nhỏ. Tôi liền hỏi:
- “Từ ngày em bị bắt, em đă gặp con chưa?”.
Hắn nh́n tôi rất nhanh, đôi mắt có vẻ khẩn thiết. Tôi lại hỏi:
- “Em có muốn gặp vợ và con không?”.
Hắn túm tím miệng, nuốt nước bọt cái ực rồi nói vội vàng:
- “Ông có giúp tôi được không?”. Tôi gật. Lúc đó hắn mới cho biết:
- “Theo lời khuyên của tên Tư, một tuần trước khi đi đặt chất nổ, hắn đă cho vợ con về sống với quê ở Mỏ Cày. Hắn hy vọng vợ hắn đọc báo đă biết tin hắn bị bắt và đem con lên Sài G̣n. Hắn cho tôi hai địa chỉ ở Sài G̣n, và yêu cầu tôi làm mọi cách để vợ con hắn vào thăm hắn trong tù. H́nh như hắn muốn nói nhiều nữa, nhưng nhân viên nhà lao đă bước vào đem hắn đi. Hắn bỗng nắm chặt lấy tay tôi, cánh tay run run. Hắn nh́n tôi, và tôi thấy mắt hắn ướt.
Chiều hôm ấy, khi ra khỏi nhà lao, tôi lái xe thẳng đến khuôn viên nhà thờ Đức Bà, gởi xe cho một đứa bé, rồi thuê xích lô đạp về chợ Cầu Ông Lănh. Tối mịt, tôi mới ra về. Tôi không t́m thấy vợ con hắn.
Trưa hôm sau, tôi viết hai lá thơ, một cho người chú, một cho vợ hắn, báo tin ngày ṭa xử và nhắn vợ hắn đến văn pḥng tôi với hai tấm h́nh để làm thủ tục xin giấy đi thăm nuôi. Kư xong hai bức thư, tôi vào nhà lao báo cho hắn biết về cuộc t́m kiếm của tôi. Nhưng tôi không được gặp hắn: hắn đă bị trả về an ninh quân đội để bổ túc hồ sơ. Từ đó đến hôm ṭa xử, tức là hai tuần lễ, tôi không có dịp gặp hắn nữa.
Hôm ṭa xử, tôi đi sớm; Mới 8 giờ sáng, tôi đă có mặt ở bến Bạch Đằng. Khi lái xe vào cổng ṭa án mặt trận, tôi thấy một thiếu phụ ôm con ngồi nép ở lối đi, bên cạnh một cái lẵng. Không hiểu sao, tôi nghĩ đó là vợ hắn. Tôi đỗ xe trong sân ṭa, rồi trở ra cổng gặp người thiếu phụ. Tôi hỏi ngay:
- “Chị là vợ anh Đầy?”. Thiếu phụ gật đầu. Tôi hỏi:
- “Chị được tin từ hôm nào?”.
Thiếu phụ cho biết, khi đọc báo biết tin chồng bị bắt, chị muốn lên Sài G̣n ngay, nhưng v́ đứa con đau nặng, nên ông bà già không cho đi. Cách đây 4 hôm chị nhận được thư của người chú cho biết ngày ṭa xử, vả lại đứa con cũng đă gần hết bịnh, nên ông bà già mới cho đi. Tôi nh́n đứa bé nằm ngủ trong ḷng mẹ, da nó xanh mét. Thỉnh thoảng nó cựa ḿnh rên khẽ khẽ, người mẹ lại lấy tay vỗ nhẹ để ru. Chị ta hỏi tôi:
- “Thưa ông, liệu ảnh có việc chi không?”. Tôi không t́m được câu trả lời, nh́n đứa bé rồi hỏi:
- “Cháu được mấy tháng rồi?”.
Chị ta trả lời:
- “Con sanh cháu được 6 tháng th́ ảnh bị bắt”.
Bỗng có tiếng c̣i hụ và tiếng người nhốn nháo. Tôi nh́n về phía đường Bạch Đằng. Một chiếc xe cam nhông đang chờ tới. Đó là xe chở tội nhân. Khi chiếc xe đi ngang qua, tôi nh́n thấy hắn và người vợ cũng nh́n thấy chồng. Chị ta vội đứng dậy, một tay xách lẵng, một tay ôm con, lễ mễ đi vào trong sân ṭa.
Tội nhân đă xuống khỏi xe, đứng sắp hàng giữa sân. Hắn đứng hàng chót, ngơ ngác nh́n quanh như t́m kiếm. Vợ hắn gọi lớn:
- “Anh Hai, em và con đây này!”. Hắn quay mặt về phía tiếng gọi, và khi trông thấy vợ, hắn dơ hai tay bị c̣ng lên như muốn ôm gh́ một h́nh bóng. Vợ hắn đứng cách hắn chỉ một khoảng sân, chị ta bỏ lẵng xuống, rồi chạy lại phía hắn. Nhưng người lính đă ngăn lại, và ra lệnh cho đoàn tội nhân đi vào hành lang.
Đây là một lối đi lộ thiên nằm giữa hai bức tường của hai căn nhà quay lưng vào nhau. Người ta dùng chỗ đó để giữ tội nhân trong khi chờ ṭa gọi ra trước vành móng ngựa.
Hắn ngồi hàng chót, nép vào chân tường, tay hắn đă được mở c̣ng. Vợ hắn lễ mễ đến gần, người lính định cản lại, nhưng h́nh như thấy t́nh cảnh tội nghiệp, nên để cho đi qua. Tôi chỉ kịp trông thấy người đàn bà ngồi thụp xuống, rồi nghe tiếng khóc nức nở. Hắn không khóc, mở to mắt nh́n đằng trước, một tay để lên vai vợ, một tay vuốt tóc con. Lúc sau, người vợ dùng vải áo chùi nước mắt, rồi lấy ra một xị nước ngọt đựng trong túi ni lông đưa cho chồng:
- “Anh uống đi cho đă khát, em có mua cho anh ổ ḿ thịt để trong lẵng”. Hắn rời tay khỏi vai vợ, đỡ lấy túi nước ngọt đưa lên môi, nhưng tay kia vẫn sờ trên ḿnh đứa con, đôi mắt dịu hẳn xuống. Trong một lúc t́nh cờ, hắn ngửng đầu lên, hắn nh́n thấy tôi đứng bên kia đường. Tôi giơ tay làm hiệu chào hắn.
Chỉ c̣n độ một hai giờ nữa, ṭa sẽ xử đến vụ hắn. Tôi muốn nói truyện với hắn. Nhưng tôi không nỡ làm bận rộn cuộc sum họp của gia đ́nh hắn. Tôi linh cảm đó là cuộc sinh hoạt lần cuối. Tôi thở dài ái ngại, rồi bỏ đi ra phía sân ṭa.
Thời gian như chậm lại. Hắn, con hắn, vợ hắn, lởn vởn trong đầu óc tôi. Làm thế nào để cứu hắn khỏi chết? Làm thế nào để ṭa án hiểu rằng: Hắn cũng như Nguyễn Văn Trọi và bao nhiêu người khác, chỉ là nạn nhân đáng thương của một hệ thống đểu cáng và tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại.
Măi mười một giờ, ṭa mới kêu đến vụ hắn. Hắn từ hành lang đi ra, bên cạnh hai người lính. Vợ hắn theo đằng xa, rụt rè bước vào ngồi ở hàng ghế cuối. Pḥng xử đông nghẹt dân chúng.
Trước vành móng ngựa, hắn nhỏ bé và non nớt hơn cái hôm tôi gặp hắn trong tù. Da hắn xanh, nét mặt thản nhiên. Tôi đến bên hắn, hắn quay lại nh́n tôi một thoáng rồi lại nh́n thẳng đằng trước mặt. Không khi nặng nề oi bức. Cả pḥng xử im lặng.
Ông chánh thẩm hỏi lư lịch rồi truyền cho hắn về ghế bi can để nghe bản cáo trạng. Tôi cũng đi xuống ngồi bên cạnh hắn. Hắn xích lại gần, như tỏ ḷng biết ơn. Tiếng viên lục sự đều đều vang trong pḥng xử. Cả ṭa, từ chánh thẩm, phụ thẩm, ủy viên chính phủ và công chúng ngồi dưới, lắng tai nghe bản cáo trạng. Chỉ có hắn là không. Hắn nh́n mông lung đằng trước mặt như đang suy nghĩ. Có lẽ hắn nghĩ tới vợ và con hắn. Bởi v́ tôi chợt thấy hắn quay đầu lại nh́n xuống pḥng xử, như t́m xem vợ hắn ngồi đâu. Bỗng nhiên mặt hắn biến sắc, tay hắn run run, đầu cúi gầm xuống.
Lục sự đă đọc xong bản cáo trạng. Hắn rời ghế bị can, đi ra trước vành móng ngựa.
Ṭa hỏi:
- “Anh đă nghe bản cáo trạng. Anh bị cáo về tội phản nghịch và toan cố sát. Anh có nhận tội không?”. Hắn gật đầu.
- Anh có ǵ để tự bào chữa không? Hắn lắc đầu.
- Anh có thể kể lại cho ṭa nghe tất cả sự việc, từ đầu đến đuôi không? Hắn nh́n ông chánh thẩm, nh́n các sĩ quan phụ thẩm, nh́n tôi, rồi lắc đầu.
Ṭa lại hỏi:
- Có phải chính anh đỗ chiếc xe vespa trước cửa tiệm? Hắn gật đầu.
- Anh có biết trong xe có thuốc nổ không? Hắn gật.
- Anh đỗ chiếc xe có thuốc nổ trước cửa “bar”, để phá cái “bar” ấy phải không? Hắn gật.
- Tên Tư bao nhiêu tuổi, vóc dáng như thế nào? Hắn đứng im, không trả lời.
Ông chánh thẩm nh́n tôi, tôi nh́n ông ta. Một bên ở vào thế khó xử, một bên ở vào thế khó căi.
Ủy viên chính phủ bèn hỏi lớn:
- “Tại sao bị can không trả lời?”.
Hắn chỉ ngước mắt nh́n ủy viên chính phủ, rồi đứng im như bức tượng.
Khi ṭa trao lời cho ủy viên chính phủ chính thức đặt câu hỏi, th́ ông nhún vai, như muốn nói với ṭa rằng ông không có ǵ để hỏi một bị can chỉ biết gật với lắc đầu. Nhưng chỉ vài giây sau, ông ta hỏi lớn:
- “Thằng Tư, tên thật nó là ǵ? Và địa chỉ thật của nó ở đâu?”. Hắn lại nh́n ủy viên chính phủ rồi im lặng. Ủy viên chính phủ bèn làm cái cử chỉ quen thuộc, để ṭa hiểu rằng ông không c̣n ǵ để hỏi nữa.
Đến lượt tôi đặt câu hỏi. Tôi hỏi:
- “Khi lấy cung em có bị đánh đập, tra tấn, hăm dọa ǵ không?. Hắn lắc đầu. Tôi hỏi câu chót:
- “Em có hối hận v́ đă nghe lời dụ dỗ của tên Tư không?”. Hắn cúi nh́n xuống đất, rồi lắc đầu.
Tôi đưa ra hai cây sào. Không ngờ hắn đă từ chối không nắm lấy, và h́nh như c̣n thích thú để cho nước cuốn trôi đi. Nước mắt người vợ và t́nh thương con đă không làm hắn thay đổi.
Lăn lộn trong nghề và đă từng gặp nhiều bất trắc, nhưng chưa bao giờ tôi buồn và thất vọng như hôm ấy.
Ủy viên chính phủ đứng lên buộc tội. Ông nhấn mạnh đến trường hợp quả tang phạm pháp, bản chất của tội trạng (phản nghịch và toan cố sát) và thái độ ngoan cố của hắn. Ông kết luận:
- “Trong cuộc đấu tranh chống cộng sản, chúng ta cần phải nghiêm trị những kẻ phá hoại trật tự an ninh, những tên cán bộ nằm vùng, những tên đặc công khủng bố giết người không gớm tay. Nếu hôm đó quả ḿn nổ, bao nhiêu dân chúng qua đường đă chết thảm, bao nhiêu dân chúng vô tội đă bị què cụt, đui mù...”. Ông yêu cầu ṭa lên án tử h́nh.
Ṭa trao lời cho tôi.
Trách nhiệm của tôi quá lớn và nhiệm vụ quá khó khăn. Biên hộ cho một bị can phạm tội phản nghịch và toan cố sát với trường hợp gia trọng. Bị can ấy đă nhận tội, từ đầu đến cuối không lúc nào phản cung. Bị can ấy từ chối không trả lời một câu hỏi nào của ṭa án. Giọng nói tôi trầm trầm. Tôi nói, h́nh như không phải cho ṭa nghe, mà cho chính tôi nghe. Tôi đang cố trả lời những câu hỏi mà chính tôi thắc mắc.
Tại sao hắn không có một lời tự bào chữa?. Tại sao hắn đă nhận tội một cách dễ dàng và không một lần nào phản cung, trong hồ sơ cũng như trước ṭa?. Hắn là một đặc công bị bắt trong khi đặt chất nổ, chắc chắn hắn không tránh khỏi sự tra tấn trong khi lấy cung. Tại sao hắn không nói điều đó ra trước ṭa?. Chẳng những vậy, hắn c̣n phủ nhận việc hắn bị tra tấn. Tên Tư là ai?. Tại sao hắn lại im lặng không chịu cung khai?. Tại sao hắn đă từ chối trả lời ngay cả những câu hỏi có lợi cho hắn?.
Không ai muốn chết, không ai muốn bị hành h́nh, không ai muốn bị bắn chết như một con chó tại một góc tường. Huống chi hắn mới hai mươi tuổi, có vợ, có con, thương vợ thương con. Chỉ có một câu trả lời: hắn đă bị quyến rũ phạm tội ác. Sau khi phạm tội ác, hắn vẫn bị theo dơi, hắn sợ bị trả thù, hắn sợ vợ con hắn bị hăm hại, nên đă phải im lặng. Biết đâu trong pḥng xử ngày hôm nay không có một tên Tư nào đó, đang ngồi theo dơi hắn?. Hướng về ông ủy viên chính phủ, tôi nói như tâm sự:
- “Tôi đồng ư là chúng ta, những người quốc gia, phải thẳng tay – nếu cần, phải giết – những tên cộng sản khát máu, những tên cộng sản khủng bố dân chúng, phá hoại an ninh trật tự, những tên đặc công giết người không gớm tay. Nhưng trong mhiện vụ, tôi không nghĩ rằng bị can là một tên cán bộ cộng sản, một tên khủng bố, một tên đặc công đúng với ư nghĩa và tầm vóc của nó. Và điểm quan hệ trong vụ này là: quả ḿn đă không nổ”. Kết luận, tôi yêu cầu ṭa khoan hồng, bị can mới hai mươi tuổi, phạm tội lần đầu tiên, có vợ và có con c̣n nhỏ, v́ vậy đáng được hưởng sự khoan hồng ấy.
Sau lời biện hộ của tôi ṭa hỏi:
- “Bị can có điều ǵ muốn nói không?. Bị can có quyền nói lời chót”. Hắn lắc đầu.
Ṭa ngưng xử, bước vào pḥng luận tội. Một nửa giờ sau, ṭa trở ra tuyên án. Không phải một bản án khổ sai hữu hạn, khổ sai chung thân, như tôi nghĩ. Mà là: tử h́nh. Lập tức hắn bị c̣ng tay dẫn đi.
Lúc đó đă quá trưa, người ta kéo nhau ra về. Tôi thơ thẩn xách áo ra xe, và khi lái xe qua cổng ṭa, tôi thấy vợ hắn ôm con ngồi khóc.
Tôi về văn pḥng, viết đơn xin ân xá cho hắn. Đây chỉ là một vấn đề thủ tục, nhưng tôi đă làm với sự cẩn trọng như một lễ nghi tôn giáo. Tôi muốn cứu hắn khỏi chết. V́ nhân đạo. V́ nghề nghiệp. Và cũng v́ trường hợp cá biệt của hắn. Hắn khác Nguyễn Văn Trọi. Nguyễn Văn Trọi khóc lóc, la hét trước ṭa, và sau khi ṭa lên án tử h́nh, Trọi đă hô lớn “Hồ Chí Minh muôn năm” rồi lại khóc lóc la hét. C̣n hắn, hắn nín thinh.
Hắn khác
Nguyễn Hữu Thọ. Nguyễn Hữu Thọ cao
ngạo, hậm hực trước ṭa (4). Hắn chịu đựng, nhẫn nhục
đến độ gần như khắc kỷ (stoique).
Tôi nhớ đến bài
thơ “La mort du loup”...
*
Một năm đă trôi
qua.
Bức thư mà trung
sĩ Ấn đưa cho tôi chiều nay chỉ vẻn
vẹn mấy ḍng chữ đánh máy:
- “Trân trọng báo để luật sư tường,
đơn xin ân xá của Trường Văn Đầy
đă bị bác. Ngày mai, hồi 5 giờ 30, bản án sẽ
được thi hành. Nếu luật sư muốn
hiện diện nơi hành quyết, xin có mặt tại
trung tâm cải huấn Chí Ḥa lúc 4 giờ 30. Trân trọng”.
Suốt đêm tôi
trằn trọc không ngủ, đầu óc lởn vởn
khuôn mặt của hắn và h́nh ảnh hắn ngồi
trong hành lang, một tay để lên vai vợ, một tay
sờ trên ḿnh đứa con. Chưa đầu 4 giờ
sáng, tôi đă thức dậy, đi vào khám.
Tôi bước vào pḥng
đợi, đă thấy một vị sư mặc áo tu
hành đang ngồi lần chuỗi hột. Viên quản
đốc nhà lao cho tôi biết: nhà sư đă tới
trước tôi cả nửa giờ. Lúc sau, một linh
mục bước vào, trong bộ quân phục thiếu tá
tuyên úy. Bốn giờ ba mươi, ủy viên chính phủ
đến. Rồi đoàn người, gồm viên quản
đốc, ủy viên chính phủ, luật sư và hai
vị tuyên úy, lặng lẽ đi vào một căn pḥng
rộng. Thường nhật đây là chỗ tập
họp điểm danh tội nhân trước và sau khi
đi làm hoăïc đi ṭa.
Hắn đă ngồi
đó từ bao giờ, bên cạnh cái bọc quần áo. Ánh
sáng vàng bệch của ngọn đèn cáu bụi trên
trần phả xuống bốn bức tường
trắng. Tôi chợt có ư nghĩ kỳ lạ, là đang
bước vào căn nhà xác của một bệnh viện.
Đoàn người
đến gần, hắn dứng dậy, đôi mắt
như ḍ hỏi. Một phút im lặng, dài như một
ngày. Ủy viên chính phủ trịnh trọng nói với
hắn:
- “Anh hăy can đảm lên và nghe tôi đọc”. Rồi
ông lớn tiếng đọc bản án tử h́nh và
bản quyết định bác đơn xin ân xá của
hắn. Hắn cúi đầu nh́n xuống sàn nhà, đôi
mắt mở to, người hắn run lên. Nhưng chỉ
giây lát, hắn lấy lại b́nh tĩnh. Hắn hỏi:
- “Bao giờ người ta xử tôi?” Viên quản
đốc để tay lên vai hắn trả lời:
- “Ngay sáng hôm nay”. Rôi ông thân mật nói với hắn:
- “Bây giờ em có muốn ăn uống ǵ không, khám
đường sẽ chu tất cho em?”. Hắn lắc
đầu.
Lúc đó, không ai bảo
ai, mọi người đều nói với hắn một
vài câu an ủi. Không khí thân mật và âu yếm như trong
cuộc tiễn đưa. Riêng tôi, chỉ nh́n hắn, tôi
muốn nói truyện riêng với hắn và đó là quyền
của luật sư “hiện diện”. Ủy viên chính
phủ đồng ư và cho biết: tôi có ba phút. Rồi
mọi người đi ra để ḿnh tôi với
hắn.
Khi người cuối
cùng ra khỏi pḥng, hắn nắm tay tôi và nh́n tôi rất
lâu. Tôi hỏi:
- “Em có muốn nhắn ǵ vợ con không?” Hắn suy
nghĩ giây lát rồi nói:
- “Luật sư có gặp th́ bảo đừng ở
dưới vườn, và nhớ nuôi lấy thằng
Cảnh”. Tôi lại hỏi:
- “Em chết có điều ǵ oán hận không?”. Hắn
không trả lời. Tôi yên ủi hắn:
- “Ai cũng phải chết một lần. Đời
sau mới là điều quan hệ. Em theo đạo nào?”.
Hắn lưỡng lự không trả lời.
Tôi là người công
giáo. Tôi ước muốn hắn dành một phút để
nghĩ đến thượng đế và ḷng
thương mênh mang hơn vũ trụ của ngài.
Nhưng ủy viên chính phủ đă bước vào nói
nhỏ:
- “Luật sư hết giờ rồi”. Rồi ông thân
mật nói với hắn:
- “Ở đây có hai vị tuyên úy, em muốn nói
truyện với ai?”. Hắn nh́n nhà sư mặc áo tu hành,
hắn nh́n vị linh mục mặc quân phục thiếu
tá, rồi xin được nói truyện với nhà sư.
Tôi cúi đầu theo
ủy viên chính phủ và vị linh mục đi xa ra
một góc pḥng. Nh́n về phía hắn, th́ thấy nhà sư
cúi đầu tụng kinh và hắn cũng cúi đầu,
như lắng tai nghe kinh. Khoảng khắc nhà sư
ngửng đầu lên, để tay lên vai hắn trong
cử chỉ vỗ về bao dung. Lúc đó là 5 giờ,
giờ khởi hành. Người ta xúm chung quanh hắn,
mỗi người nói một câu chân t́nh. Hắn như
chợt nhớ ra, xin phép được thay quần áo.
Một sĩ quan chạy đến cầm cái bọc
đưa lại. Hắn mở bọc, lấy một cái
áo sơ mi cụt tay mầu xám và một cái quần dacron
đen. Khi hắn thay quần áo, tôi nh́n thấy những
vết thẹo và lằn roi trên da thịt xanh xao của
hắn. Thay xong quần áo, hắn xin một điếu
thuốc. Viên quản đốc mỉm cười, đi
lấy một bao thuốc ách chuồn trịnh trọng rút
ra một điếu, dộng dộng trên móng tay cái,
rồi đưa cho hắn, Hắn đưa lên môi và được
ông quản đốc châm lửa.
Lúc đó, nhân viên an ninh
đến; hắn ngoan ngoăn đưa hai tay chụm
đằng trước để người ta c̣ng.
Rồi đoàn người đi ra khỏi pḥng. Hắn
đi đầu, thản nhiên qua từng đợt
cửa, thỉnh thoảng đưa hai tay c̣ng lên môi hút
thuốc. Khi mọi người ra tới sân, điếu
thuốc gần lụi, và hắn buông rơi xuống
đất.
Ra tới sân nhà lao,
hắn bước lên bậc đằng sau chiếc xe bít
bùng, hơi cúi đầu một chút, rồi đi vào trong
xe. Cửa xe đóng sập lại. Tôi lên xe riêng, lái
thật nhanh ra khỏi nhà lao.
Chiếc xe tôi lầm
lũi đi trong đêm, ánh đèn pha chiếu dài cả
một con đường Lê Văn Duyệt. Thành phố
Sài G̣n đang trở ḿnh thức giấc. Một vài gánh hàng
rong lặng lẽ đi trong lề. Và đâu đó có
tiếng động cơ quen thuộc của những
chiếc xe lam dậy sớm.
Tới bùng binh chợ
Bến Thành, tôi đă thấy đám đông bu quanh vùng ánh
sáng của pháp trường. Kư giả ngoại quốc
chạy nhốn nháo, với máy ảnh và máy quay phim.
Cảnh sát chận xe
tôi, và sau khi nh́n thấy chiếc áo đen, đă dẹp
đám đông cho xe tôi vào. Tôi đỗ xe ngay sát chân
tường nhà Hỏa Xa, cách pháp trường cát
độ 30 thước. Những ngọn đèn pha đă
được đặt từ bao giờ. Tất cả
đều chĩa vào mấy bao cát, tạo thành vùng ánh sáng
rợn người. Một chiếc cọc đen, đàng
sau là những bao cát chất thành ṿng cánh cung, và cách đó
độ 3 thước. Một chiếc quan tài đậy
nắp, trên nắp có một xấp vải trắng. Xa
nữa là chiếc xe chữa lửa.
Tôi đứng trong vùng
ánh sáng chưa được 15 phút th́ nghe tiếng c̣i tu hít
của cảnh sát dẹp đường và tiếng c̣i
hụ. Người ta chạy nhốn nháo. Tôi ngước
mắt nh́n ra, thấy đoàn xe đang tiến tới.
Chiếc xe bịt bùng, chầm chậm đỗ lại
bên lề đường. Giây lát sau hắn bước
xuống. Tôi rời khỏi chỗ đứng, chạy
đến bên hắn, rồi cùng hắn đi vào pháp
trường. Hắn và tôi đi đầu, theo sau là
đoàn người áp giải.
Hắn bước
đều đều, mặt cúi xuống đất. Dân
chúng bu nghẹt, chỉ để chừa một lối
đi, được án ngữ bằng hàng rào an ninh.
Bây giờ chúng tôi đă
bước vào vùng ánh sáng. Hắn bỗng ngửng
đầu lên, và đứng khựng lại. Người
lính đi đằng sau lấy tay đẩy nhẹ vào
lưng hắn, hắn lại tiếp tục bước
tới.
Tôi đoán, chiếc quan
tài và tấm khăn liệm đă làm hắn khựng
lại. H́nh ảnh thực của chiến tranh không t́m
thấy ở chiến trường mà t́m thấy trong các
bệnh viện, nơi đó có những h́nh hài cụt chân,
cụt tay, những đống thịt bầy nhầy,
những hố mắt, những cuộn băng bê bết
máu mủ và những tiếng rên rỉ đau đớn.
Và h́nh ảnh trung thực của cái chết vẫn là cái
quan tài, tấm khăn liệm và những người thân
yêu mặc đồ sô trắng tiễn đưa.
Hắn và tôi đă
bước vào trong ṿng bao cát. Người ta mở
cổng, rồi giữ gh́ lấy hai cánh tay hắn,
đẩy hắn dựa lưng vào chiếc cọc
sắt. Hai cổ chân hắn bị trói, chụm vào chân
cọc; Hai cánh tay hắn bị kéo ngược ra
đằng sau, buộc vào một cái cọc ngang, khiến
người hắn phải kiễng lên. Hắn nhăn
mặt kêu đau. Tôi nói với sĩ quan an ninh:
- “Đằng nào tội nhân cũng sắp chết, ông
nên hạ thấp cọc ngang xuống, kẻo máu dừng
nơi nách, tội nghiệp”. Vị sĩ quan gật
đầu. Hắn nh́n tôi, và lần đầu tiên hắn
nói:
- “Cám ơn luật sư”.
Lúc đó, đội hành
quyết đă sắp hàng chỉnh tề, chỉ c̣n
đợi sĩ quan quân trấn trưởng đến là
khởi sự. Nhưng ông ta chưa đến. Một
phút, hai phút, rồi năm phút trôi qua. Dân chúng đứng
chen chúc bên ngoài, cách pháp trường độ một
trăm thước, im lặng chờ đợi.
Chỉ c̣n ḿnh tôi
đứng sát bên hắn. Hắn trăn trối:
- “Luật sư nhớ bảo vợ tôi đừng
ở dưới vườn, đừng nghe theo chúng nó, và
nhớ nuôi lấy con”. Tôi gật đầu. Hắn
bỗng nấc lên:
- “Con ơi, con ơi. Cảnh ơi, Cảnh ơi”.
Tiếng nấc của hắn làm tôi mũi ḷng. Tôi
để tay lên vai hắn, định an ủi nhưng
cổ tôi bị mắc nghẹn không ra lời. Rồi
chợt nghĩ đến đời sau của hắn, tôi
nói thầm bên tai hắn:
- “Xin thượng đế giúp em chết lành. Em chết, nhớ phù
hộ cho vợ con”. Hắn lại nấc lên và gọi:
- “Cảnh ơi, Cảnh ơi”.
Chính lúc đó, quân trấn trường đến.
Người ta bèn bịt mắt hắn. Hắn vẫn
nấc, vẫn gọi tên con. Có tiếng lên đạn
đằng sau lưng tôi. Ông ủy viên chính phủ nói
lớn:
- “Xin luật sư đứng tránh
ra”.
Tôi
đi dật lùi ngang về phía trái, mắt không rời
hắn. Miệng hắn vẫn lắp bắp gọi con.
Một loạt đạn nổ. Đầu hắn
ngoẹo về bên trái. Máu trong người hắn từ
từ chảy róc xuống chân. Viên đội trưởng
đội hành quyết đến gần cọc, nắm
tóc kéo ngược đầu hắn về phía sau, dí
khẩu súng vào màng tang bắn phát súng ân huệ. Một
tiếng “Đét” khô khan.
Người ta vội vàng liệm xác hắn, và
chiếc ṿi nước của xe chữa lửa vội vă
rửa sạch vết máu trước khi mặt trời
mọc.
*
Tối hôm đó, đài phát thanh Hà Nội mặc niệm hắn, hết lời ca tụng cái chết anh hùng của hắn. Đài phát thanh Hà Nội nói rơ rằng: Từ lúc bị trói vào chân cột cho đến lúc chết, hắn đă noi gương anh hùng Nguyễn Văn Trọi, không ngớt đả đảo Mỹ Ngụy và hô to khẩu hiệu Hồ Chí Minh muôn năm.
Nguyễn Văn Chức
Chú Thích:
(1) Nguyễn Văn Trọi bị bắt trong lúc ôm
bom ở cầu Công Lư, chờ ám sát phái đoàn Mac Namara
hồi năm 1964. Nguyễn Văn Trọi bị xử
tử và được Mặt Trận Giải Phóng
cũng như Hà Nội ca tụng là anh hùng. Hiện nay có
đường Nguyễn Văn Trọi tại Sài G̣n, (h́nh
như là đường Trương Minh Giảng cũ).
(2) Nhất Linh Nguyễn
Tường Tam uống độc dược quyên sinh
tại nhà riêng trong đêm mùng 7 tháng 7 1963.
(3) Phan Quang Đán phải hèn, v́
đă viết thơ cho hai anh em họ Ngô, xin “Tổng
thống và ngài cố vấn” khoan hồng tha tội. Bức thư
đó, Ngô Đ́nh Nhu có trao cho ủy viên chính phủ.
(4) Năm 1957, luật sư Nguyễn Hữu Thọ
bị bắt và bị truy tố về tội hiếp dâm.
Phiên ṭa xử ở Nha Trang Luật sư đoàn ở Sài
G̣n đă cử một phái đoàn hùng hậu ra Nha Trang
biện hộ cho Nguyễn Hữu Thọ, trong số
đó có thủ lănh Vương Quang Nhường, luật
sư Bùi Tường Chiểu, Vũ Văn Hiền, Vũ
Văn Huyền, Nguyễn Lâm Sanh v.v... Một
luật sư người Pháp là ông Couget cũng có mặt
trong phái đoàn biện hộ. Ṭa đă
tha bổng Nguyễn Hữu Thọ v́ “nghi vấn”. Sau
1975, Nguyễn Hữu Thọ là phó chủ tịch nhà
nước Việt Cộng.
Nguyễn Văn Chức