NHẬN ĐỊNH VỀ T̀NH
H̀NH ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
---------- Mặc Giao ---------
Vấn đề Việt Nam vốn
phức tạp. T́nh h́nh Việt Nam có thể
được nh́n từ nhiều khiá cạnh với
những lập trường khác nhau. Người th́ cho
rằng Việt Nam đă đạt nhiều tiến
bộ về kinh tế từ 1986 đến nay,
đồng thời cũng cởi mở cách cai trị
khiến người dân được dễ thở
hơn. Người khác lại nhận định rằng
những tiến bộ tương đối về kinh
tế và chính trị ở Việt Nam không thể
đắp bù những tụt hậu trong tất cả
mọi lănh vực. Tuy nhiên, có một sự thật không
thể chối căi, đa số người Việt ở
trong và ngoài nước cũng như những nhà quan sát
chính trị quốc tế, hay cả những du khách,
thấy Việt Nam c̣n qúa nhiều thiếu sót cần
phải cải thiện, thấy đất nước và
dân tộc Việt Nam c̣n có nhiều tiềm năng
để phát triển hơn t́nh trạng hiện tại,
nếu những người cai trị dám trực diện
với những vấn đề, có thiện chí và
quyết tâm giải quyết. Chúng ta không có thiên kiến cho
rằng cái ǵ của Việt Nam cộng sản cũng
xấu. Nhưng chúng ta cũng không mờ mắt v́
những h́nh ảnh hào nhoáng và những lời lẽ
nặng tính tuyên truyền và tâng bốc. Người
viết cố gắng khách quan khi thực hiện bài
nhận định này. Bài nhận định sẽ
gồm có ba phần:
1 – Thực trạng của đất nước
2 – Những hậu qủa ảnh hưởng tới xă
hội và tâm thức của cộng đồng dân tộc
3 – Những điểm hẹn không thể vắng mặt
trong một tương lai gần.
I –
THỰC TRẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC
Nếu kể những
điều tích cực đang xảy ra tại Việt Nam,
chúng ta có thể kể trong vài phút. Nhưng nếu nói
tới những điều tiêu cực, chúng ta có thể nói
cả ngày vẫn chưa hết và sẽ làm người
nghe phải than: “Biết rồi, khổ lắm, nói măi!”. V́
vậy chúng tôi chỉ tŕnh bầy những ǵ chúng tôi
nghĩ là cần phải nói.
1/ Một nền kinh tế vô định hướng
Chúng ta nh́n nhận
Việt Nam đă đạt một số tiến bộ
về kinh tế từ năm 1986, khi Đại Hội 6
của đảng Cộng Sản Việt Nam chọn
Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và quyết
định áp dụng kinh tế thị trường, mở
cửa cho tư bản ngoại quốc đến
đầu tư. Để thực hiện điều
này, nhà nước Việt Nam đă phải ban hành một
số luật lệ và áp dụng một số biện
pháp mới khả dĩ đáp ứng nhu cầu giao lưu
quốc tế và tạo một bộ mặt coi
được cho “quan trên trông xuống, người ta
trông vào”. Từ đó, đời sống của dân chúng
cũng đỡ bị bóp nghẹt, không c̣n nạn tem
phiếu, xếp hàng cả ngày, ngăn sông cấm chợ.
Kinh tế tự do như một gịng nước t́m
chỗ chảy, chỗ nào không bị be bờ là
nước sẽ tràn tới. V́ vậy, sự tiến
bộ tương đối về kinh tế trong gần
ba thập niên qua là điều tất nhiên. Lợi tức
thường niên tính theo đầu người từ 300
Mỹ kim cách đây 25 năm đă tăng lên 1,200 Mỹ kim
trong năm nay (theo Phó Thủ Tướng Nguyễn Sinh
Hùng), dù c̣n thua rất xa những nước lân bang như
Thái Lan, Mă Lai, Singapore (1). Một số chính phủ và nhân
vật chính trị cổ vơ quan điểm nên giúp các
chế độ độc tài phát triển kinh tế.
Một khi kinh tế khá lên, tự do và dân chủ cũng
sẽ triển nở, v́ lúc đó dân chúng sẽ đ̣i
thỏa măn những nhu cầu khác ngoài nhu cầu cơm áo.
Luận điểm này đă được chứng minh
ngược lại với các trường hợp Trung Hoa
và Việt Nam. Nó chỉ c̣n giá trị biện minh cho sự
cộng tác với những chế độ đàn áp con
người.
Áp dụng kinh tế
thị trường là đi ngược điểm
cốt lơi của chủ thuyết cộng sản, theo
đó quyền tư hữu không được công
nhận, tài sản do mọi người làm ra phải
được tập trung trong sự quản trị
của nhà nước vô sản chuyên chính và sẽ được
phân phối theo nhu cầu. V́ vậy, để khỏi mang
tiếng hoàn toàn đánh mất lập trường cơ
bản, kinh tế thị trường được
gắn thêm cái đuôi “theo định hướng xă
hội chủ nghiă”. Nếu xă hội chủ nghiă
được hiểu là thực thi t́nh đoàn kết liên
đới (solidarity) theo chế độ dân chủ xă
hội (social democracy) như ở các nước Bắc Âu:
người giầu giúp người nghèo, người
khỏe mạnh giúp người đau ốm, người
trẻ nuôi người già, người có việc nuôi
người thất nghiệp, nhà nước chỉ
đóng vai tṛ điều hành và phân phối một cách trong
sáng, th́ đó là điều vạn phúc cho dân. Thế
nhưng định hướng xă hội chủ nghiă trong
ư nghĩ và hành động của cộng sản Việt
Nam chỉ là “quốc doanh chủ đạo”.
Những công ty nhà nước nắm hết những ngành
sản xuất và doanh thương quan trọng. Tại
những quốc gia dân chủ b́nh thường, những
công ty quốc doanh chỉ được duy tŕ một cách
hạn chế để làm đầu tầu kéo chính sách
kinh tế vĩ mô và bảo đảm an toàn cho việc
cung cấp những dịch vụ có lợi ích công cộng
hay thiết yếu cho an ninh quốc pḥng (bưu
điện, giao thông, dầu khí, điện nước …).
Nhà nước cộng sản Việt Nam có giảm bớt
một số công ty quốc doanh qua biện pháp cổ
phần hóa, nhưng vẫn giữ lại nhiều công ty
không thuộc lănh vực phục vụ công ích và an ninh
quốc gia. Thêm vào đó, dưới trào Thủ
Tướng Nguyễn Tấn Dũng, những tập
đoàn doanh thương nhà nước có tầm vóc bao trùm
với số vốn khổng lồ được thành
lập, như Vinashin (kỹ nghệ tầu thủy, công ty
tài chánh ALC II (lease financing, cho vay tài khoản tạo măi
thiết bị sản xuất). Các tập đoàn này
được đặt trực thuộc thủ
tướng. Việc giữ lại cái đuôi định
hướng xă hội chủ nghiă với những
đại công ty và tập đoàn kinh tế c̣n có những
tính toán không thể nói ra:
- Rút tiền từ các công ty để tài trợ cho
đảng cộng sản,
- Làm giầu cá nhân qua những món tiền đi đêm khi kư
hợp đồng và chia chác hoa hồng,
- Gài người thân tín vào các chức vụ chỉ huy các
công ty để nắm luôn quyền lực kinh tế.
Tư lợi th́ như thế,
nhưng trách nhiệm th́ vô can. Công ty nào lỗ vốn đă
có tiền của quốc gia đắp bù. Vinashin
nợ 80,000 tỷ đồng VN trước khi tái cơ
cấu, trong số nợ này 750 triệu Mỹ kim là trái
phiếu chính phủ (VNExpress 24-5-2011). Vinashin không có tiền
trả nợ và lăi định kỳ cho các ngân hàng quốc
tế khiến nhà nước phải ứng thêm 500
triệu Mỹ kim. ALC II lỗ 3,004 tỷ đồng VN
trong năm 2009, và đến cuối năm 2010 công ty này
vừa lỗ vừa làm thất thoát tới 4,000 tỷ
đồng (theo Ban Kiểm Toán công ty ALC tháng 10, 2010).
Tổng công ty xăng dầu lỗ 3,600 tỷ trong 3 tháng
(2). Lối làm ăn phản kinh tế này chứng tỏ
những người cầm quyền không dám tiến
thẳng tới nền kinh tế thị trường
tự do, v́ chưa dám lột bỏ nhăn hiệu xă hội
chủ nghiă (dù nội dung đă khác hết rồi), sợ
“diễn biến ḥa b́nh” xảy ra và v́ c̣n
muốn tiếp tục thủ lợi qua chính sách kinh
tế nhập nhằng này, đúng như Hà Sĩ Phu
nhận định: “Đổi mới là lọc lấy
cái béo bở, c̣n tự do dân chủ th́ vứt bỏ…Làm kinh
tế thị trường theo định hướng xă
hội chủ nghiă chính là đứa con lai láu cá đó. Trong
cách tính toán ấy làm ǵ có dân?” (Chia Tay Ư Thức Hệ).
Trong khi đó việc để cho hàng lậu tràn ngập
thị trường nội địa, đặc biệt
xuất phát từ Trung công, gây thất thâu cho ngân sách
quốc gia và giết chết nhiều ngành công nghệ
bản xứ. Nạn nhân viên thuế vụ kiếm
tiền riêng trong việc thỏa hiệp với
người đóng thuế cũng gây thiệt hại cho
công qũy những số tiền khổng lồ không ai
ước lượng nổi.
Làm kinh tế như thế
th́ sớm muộn cũng dẫn đến phá sản. Hậu qủa trông
thấy là đồng bạc VN mất giá 20% trong ṿng ba
năm nay, chính phủ VN nợ ngoại quốc 29 tỷ
Mỹ kim, mỗi năm phải trả tiền lời 4
tỷ Mỹ kim. Chỉ trong tháng 5-2011, nhập cảng
nhiều hơn xuất cảng 1.7 tỷ Mỹ kim,
ngoại tệ dự trữ chỉ c̣n 12,2 tỷ (theo
Tổng Cục Thống Kê), không đủ trả tiền
lời và mua hàng nhập cảng cho năm nay, trong đó có
những nguyên liệu cần thiết cho các nhà máy. Chắc
chắn nhà nước sẽ phải đi vay nợ thêm,
dù số nợ công đă tăng tương
đương 52,6% tổng sản lượng nội
địa (GDP). Hệ thống ngân hàng rối loạn. Ngân
hàng nhỏ vay tiền ngân hàng lớn của nhà nước
với lăi xuất 20% để chi phí cấp thời và cho
vay lại với lăi xuất 14% theo luật định
(đài BBC 23-5-2011, theo hăng tin tài chánh Bloomberg). Nợ xấu
không có khả năng trả lên tới 60% (3). Lối làm
kinh tế giật gấu vá vai và “ḿ ăn liền” kiểu
này sẽ tạo nguy cơ phá sập nền kinh tế c̣n
non nớt. Tệ hại hơn cả là nạn vật giá
leo thang. Giá tiêu thụ tăng 17,51% trong tháng 4 và 19,78% trong
tháng 5-2011 so với cùng thời gian hai tháng này năm
trước (theo Bloomberg), khiến đời sống
của những người có lợi tức thấp càng
thêm cơ cực. Nhà nước t́m cách giảm lạm phát
bằng việc tăng lăi xuất cho vay để hạn
chế khối tiền tệ lưu hành. Giải pháp này
chẳng những không hữu hiệu với hoàn cảnh
Việt Nam hiện tại mà c̣n gây khó khăn cho các cơ
sở doanh thương ít vốn, khiến các cơ sở
này phải thu hẹp hoạt động, sa thải nhân
công, làm cho kinh tế tŕ trệ thêm. Kinh tế Việt Nam
đang đi theo đường nào và sẽ đi về
đâu?
2/ Một đất nước bị bán rẻ, bị
khai thác và tàn phá
Bổn phận
đầu tiên của những người có trách nhiệm
quản trị đất nước là bảo vệ
sự vẹn toàn lănh thổ quốc gia và bảo vệ tính
mạng và tài sản của nhân dân. Những người
cầm quyền cộng sản VN đă làm ǵ?
Họ đă
nhượng một phần lănh thổ và lănh hải cho
cộng sản Trung Hoa để đổi lấy sự
ủng hộ chính trị cho riêng đảng cộng
sản của họ. Được đà, cộng
sản Trung Hoa đă leo thang đ̣i chủ quyền
đảo và biển từ Hoàng Sa cho tới hết
Trường Sa theo h́nh lưỡi ḅ do họ tự
vẽ. Ngoài những lời phản đối lấy
lệ, cộng sản VN không có một hành động
cụ thể nào, kể cả hành động pháp lư ḥa b́nh
nhất, để bảo vệ những ǵ đă mất
hay đe dọa bị mất. Ngay khi những chiếc
tầu của Trung công xâm nhập hải phận VN
để vét cá hay kéo tầu, bắt giết ngư dân VN,
nhà cầm quyền VN chẳng những không có biện pháp
bảo vệ lănh hải và công dân của ḿnh mà c̣n không dám
gọi đích danh đó là tầu của Trung công, chỉ
dám nói “những tầu lạ”. Thái độ nhu
nhược này phải được coi như hành
động đồng lơa, đầu hàng và bán
nước, một tội mà nhân dân Việt Nam, dù thuộc
bất cứ lập trường chính trị nào, không
thể tha thứ.
Họ đă cho
Trung công băm vằm lănh thổ, khai thác bauxite tại
cao nguyên Trung phần, gây ô nhiễm môi trường, cho chuyên
viên và thợ thuyền người Hoa đến đóng
chốt tại những địa điểm có tính cách
chiến lược và an ninh quốc pḥng. Họ c̣n cho
người nước ngoài thuê dài hạn 50 năm
những khu rừng đầu nguồn thuộc 18 tỉnh
trải dài từ Bắc xuống Nam, chiếm 1% diện
tích lănh thổ. Rừng cho thuê bị đốn cây có
sẵn để trồng những loại cây khác theo ư
muốn của người thuê. Các chính quyền
địa phương tại những tỉnh ven biển
cũng bắt chước trung ương khoanh biển và
bờ biển cho các công ty ngoại quốc thuê để
xây khách sạn, lập băi tắm riêng, nuôi cấy thủy
sản trong những vùng biển rộng hàng ngàn mẫu tây,
đe dọa thay đổi sinh thái của toàn thể vùng
biển Việt Nam (4).
Họ đă rút ruột
những công tŕnh xây cất khiến giá thành cao và phẩm
chất kém. Cụ thể là những công tŕnh mới
được xây nhân dịp đại lễ 1000 năm
Thăng Long, như công viên Ḥa B́nh và đại lộ
Thăng Long, tốn kém hàng tỷ Mỹ kim nhưng đă
lún lở, bong nứt, đọng nước ngay khi lễ
hội vừa xong. Nguyên nhân là những người có
quyền đă ăn chịu với nhà thầu, mọi công
đoạn đều có đút lót, chia chác, khiến số
tiền thực sự dành cho công tŕnh c̣n lại không bao
nhiêu. Hậu qủa tự nhiên là những công tŕnh
được thực hiện bôi bác bằng những vật
liệu kém, thiếu tiêu chuẩn, sẽ chóng hư
hỏng.
Họ để
mặc cho các công ty kỹ nghệ tự do tháo nước
thải đầy hóa chất độc hại xuống
các gịng nước, tự do xả khói độc lên
bầu trời, gây ô nhiễm môi trường và tàn phá
sức khỏe của người dân. Công ty Vedan đă
biến sông Thị Vải thành một gịng nước
độc. Có những làng ở miền Bắc ch́m trong
tang thương v́ có rất nhiều dân làng đă chết
v́ bệnh ung thư do khói độc và nước thải
của những xưởng kỹ nghệ gần đó
gây ra. Nếu t́nh trạng này tiếp tục, chỉ trong
một thời gian ngắn nữa, đất nước
Việt Nam sẽ biến thành đất chết.
Đất nước
bị bán rẻ, bị khai thác, bị ḅn rút, bị bỏ
mặc cho bọn con buôn vô lương tâm tàn phá, chỉ v́
lợi riêng của những người cầm quyền
cộng sản.
3/ Một dân tộc bị bóc lột và trấn áp
Dân tộc VN đă
trở thành công cụ cho đảng cộng sản
thực hiện giấc mơ quyền lực, không
đếm xỉa tới xương máu của nhân dân và
tài nguyên của quốc gia. Họ cũng dùng dân Việt
để thử nghiệm việc áp dụng chủ
thuyết cộng sản: hận thù giai cấp, cải cách
ruộng đất, quản lư bao tử, kiểm soát ư
nghĩ và kiểm soát cả niềm tin. Khi thất bại
và t́nh thế đ̣i hỏi, họ đổi sang đường
lối gọi là cởi mở với chiêu bài kinh tế
thị trường theo định hướng xă hội
chủ nghiă, vừa để giải quyết vấn
đề kinh tế, vừa để bọn họ có
cơ hội làm ăn, vơ vét theo kiểu mới. V́
thế, nhiều tệ nạn phát sinh và được
tự do phát triển
Nạn tham nhũng
đă lan tràn và luồn lách vào mọi tế bào xă hội,
không chỉ riêng trong guồng máy công quyền. Lớn tham
nhũng lớn, nhỏ tham nhũng nhỏ, dân cũng tham
nhũng với nhau. Muốn được việc
phải có qùa cáp hay phong b́ lót tay. Xin việc, xin học
đều phải hối lộ. Muốn con
được điểm tốt th́ phải biếu xén
thầy cô, cho con học thêm tại nhà thầy cô.
Người lớn bị cướp tiền. Trẻ con
bị cướp tuổi thơ, không c̣n giờ vui
chơi, mơ mộng. Tệ nạn tham nhũng không
thể chữa nếu không thay đổi cơ chế
chính trị và không có quyết tâm diệt tham nhũng và làm
gương từ cấp cầm quyền thượng
tầng.
Thiếu vắng những biện pháp giáo
dục, y tế và xă hội nhằm phục vụ
đại đa số nhân dân. Giáo dục công nhưng không
miễn phí, mỗi trường tự ư đặt ra
những lệ phí bắt phụ huynh phải trả.
Học sinh khi thi tốt nghiệp trung học phổ thông
cũng phải đóng tiền ủng hộ nhà
trường trước khi rời trường. Nhiều
gia đ́nh không kham nổi đành cho con nghỉ học. Con
số trẻ em bỏ học và thất học gia tăng.
Dịch vụ y tế đă biến thành dịch vụ làm
tiền. Bệnh nặng hay nhẹ đều phải có
tiền mới được chữa trị. Nhà
nước mới gia tăng lệ phí trên 350 dịch
vụ y tế. Người bệnh không có tiền mà
lết đến nhà thương sẽ bị chửi
bới và xua đuổi như ăn mày, chỉ c̣n
nước về nhà chờ chết. Những gia đ́nh
nghèo, những người góa bụa, những trẻ em
không người nuôi dậy, những người già
cả không ai phụng dưỡng sống lây lất, nhà
nước không nḥm ngó tới. Nhiều tổ chức
từ thiện trong và ngoài nước đă phải làm thay
những việc đáng lẽ nhà nước phải làm.
Tước đoạt
quyền công dân và những tự do căn bản trong đó
có tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do
bầu những người đại diện để
điều khiển đất nước được
ghi rơ trong Hiến Pháp nhưng trên thực tế bị
cấm đoán triệt để. Ai xử dụng
quyền chính đáng của ḿnh sẽ bị vu oan, bị
khép vào tội vi phạm an ninh quốc gia và bị xử
theo điều 88 Luật H́nh Sự. Một thứ
quyền cao trọng nhất thuộc phần tâm linh
của con người, tự do tôn giáo, cũng bị
cấm đoán dưới nhiều h́nh thức tinh vi.
Dẹp được giáo hội nào th́ dẹp luôn. Không
dẹp được th́ dùng biện pháp chia để
trị bằng cách lập ra giáo hội mới, xúi bẩy
phân chia giáo hội chính truyền thành nhiều phe phái
(Phật Giáo), lập những ban trị sự giáo hội
gồm những tay sai cộng sản (Phật Giáo Ḥa
Hảo, Cao Đài), t́m thỏa hiệp với các vị lănh
đạo tinh thần bằng chính sách cây gậy và củ
cà rốt (Công Giáo). Cộng sản và tôn giáo là hai
đối thủ không đội trời chung. Ngay lúc
trời yên gió lặng, hai bên cũng chỉ đối
xử với nhau bằng mặt, không bằng ḷng. Tín
đồ các tôn giáo là những khối quần chúng có
một niềm tin khó lay chuyển và dễ nghe lời các
vị lănh đạo tinh thần. V́ vậy, muốn làm suy
yếu khối quần chúng tín đồ th́ phải xé nát
khối này thành nhiều mảnh và phải nắm
được các chức sắc của các giáo hội.
Mỗi giáo hội được cư xử và đàn áp
một cách khác nhau, tất cả đều nhắm
mục tiêu vô hiệu hóa sức mạnh của khối
quần chúng các tôn giáo.
Đối xử tàn ác
với dân: tệ nạn cướp đất,
cướp ruộng, đuổi nhà, bồi thường
với giá rẻ và bán lại với giá gấp trăm đă
tạo ra từng đoàn lũ dân oan, bỏ công ăn
việc làm, dẫn nhau đi khiếu kiện từ Sài G̣n
ra Hà Nội mà không được ai tiếp xúc và giải
quyết. Những người lên tiếng một cách ḥa
b́nh đ̣i tự do, dân chủ, nhân quyền bị đánh
đập, vu oan, bắt nhốt, đưa ra ṭa và bỏ
tù. Những vụ đàn áp trắng trợn nhất
mới xảy ra cho Luật sư Lê Quốc Quân, Bác sĩ
Phạm Hồng Sơn, Luật sư Cù Huy Hà Vũ.
Cộng sản c̣n có thói quen “ăn thịt” chính những
đứa con của ḿnh: Nguyễn Hộ, Trần
Độ, Hoàng Minh Chính và mới đây Vi Đức Hồi.
Những vụ đánh đập giáo sĩ, tu sĩ, giáo
dân ḷi mắt, bể đầu, gẫy tay tại Tam Ṭa,
Đồng Chiêm, Loan Lư, Cồn Dầu cho thấy cách
đối xử tàn ác, thiếu t́nh người, chưa
nói tới t́nh đồng bào, của một nhà nước
vẫn tự khoe phục vụ nhân dân. Chỉ trong bốn
tháng đầu năm 2011, đă có 5 người dân vô
tội bị công an đánh chết. Tổng số dân lành
bị công an đánh chết hay chết tại đồn
công an đă lên tới 25 người trong mấy năm qua.
Vào tháng 4 vừa qua, chị Nguyễn Thị Thanh Tuyền,
vợ nạn nhân Nguyễn Công Nhật ở B́nh
Dương c̣n bị một sĩ quan công an gọi
điện thoại tống t́nh, đ̣i chị dâng hiến
thân xác để đánh đổi sự an toàn cho
chồng, trong khi anh Nhật đă chết một cách
mờ ám ở đồn công an. Thật không c̣n hành
động nào tàn ác và đê tiện hơn! Tội
nghiệp cho dân Việt Nam! Họ được những
người mệnh danh là đầy tớ nhân dân
đối xử như quân thù, muốn bắt, muốn
đánh, muốn giết lúc nào tùy ư. Dân Việt Nam đang
bị cai trị bởi những người cùng gịng máu
nhưng hung ác và nhẫn tâm hơn những tên thực dân
ngoại chủng cướp nước ngày xưa.
II –
NHỮNG HẬU QỦA ẢNH HƯỞNG TỚI XĂ
HỘI VÀ TÂM THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC
T́nh trạng đất
nước như tŕnh bầy ở trên đă gây ra
những hậu qủa tai hại cho xă hội và cho tâm
thức của con người Việt Nam.
1/ Mất ư niệm công ích và liên đới xă hội
Đa số (chúng tôi
không dám nói tất cả) dân Việt Nam ở trong
nước hiện nay đă mất ư niệm công ích, thí
dụ tự ư làm những việc nhỏ nhặt như
lượm một cọng rác, không vứt tàn thuốc lá
bừa băi, không bứt hoa đạp cỏ tại công viên,
cho tới những việc lớn hơn một chút như
tôn trọng luật lệ giao thông, nhường
đường cho người khác. Họ không c̣n nghĩ
rằng giữ một không gian sống sạch đẹp
sẽ có ích lợi cho mọi người, trong đó có
họ; giúp giao thông điều ḥa, tránh ùn tắc, sẽ
tiết kiệm được thời giờ của
mọi người, kể cả họ. Họ chỉ
muốn được việc cho riêng ḿnh, thỏa măn ư
thích của riêng ḿnh, không cần nghĩ tới ai khác.
Ở b́nh diện cao hơn, những lợi ích chung của
đất nước và xă hội như kỷ
cương, luật lệ, danh dự của đất
nước, uy tín của dân tộc cũng bị coi
thường. Biết cách vi phạm luật lệ mà không
bị phát giác được coi là khôn ngoan. Lừa
đảo, gian tham, buôn bán ma túy làm giầu mau lẹ
được coi là khéo xoay sở. Sang Anh, Úc trồng
cần sa để kiếm tiền bất chánh, không quan
tâm tới luật lệ xứ người, không sợ
bị truy tố và chỉ đích danh là người
Việt Nam, được coi là tài giỏi. Những ai tôn
trọng luật pháp, làm ăn lương thiện bị
chê là khờ dại, đôi khi c̣n bị chửi là
đồ ngu, làm rách việc.
T́nh liên đới xă
hội cũng không c̣n. Giúp đỡ người tàn
tật, nghèo đói, ốm đau, gặp tai nạn… là
việc của người khác, không phải của “tôi”.
Thấy người bị hành hung, kể cả nữ sinh
bị lột trần và đánh hội đồng giữa
đường phố, cũng chỉ đứng xem, không
can ngăn. Thái độ dửng dưng là thái độ
của con người vô cảm, không c̣n xúc động
trước bất cứ điều ǵ. Trên b́nh diện
quốc gia, thiếu vắng những biện pháp giảm bớt
sự chênh lệch giầu nghèo, không thực hiện t́nh
liên đới và công bằng xă hội bằng việc
chữa trị người đau ốm, săn sóc
người già, trợ cấp người thất
nghiệp, nuôi nấng cô nhi qủa phụ và người
khuyết tật. Tự nhận theo xă hội chủ nghiă
mà không làm những việc này là nói láo.
2/ Mất ư niệm dân tộc và ư chí đấu tranh
Một dân tộc là
một tập hợp của những con người có
cùng nguồn gốc, cùng tiếng nói, cùng lịch sử,
cùng phong tục. Yếu tố nguồn gốc chỉ tính
theo đa số. Chẳng có dân tộc nào thuần nhất
về nguồn gốc một trăm phần trăm.
Nhiều dân tộc hiện nay mang tính tạp chủng
nhưng người dân vẫn gắn bó với nhau v́
những thụ đắc chung trong qúa khứ, v́ nhu
cầu sống chung trong hiện tại và những
ước vọng chung cho tương lai. Tinh thần dân
tộc của người Việt hiện nay ra sao? Từ
trên xuống dưới đều sống theo kiểu
“Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”.
Đảng cộng sản th́ chỉ lo cho đảng trụ
càng lâu càng tốt để tiếp tục vơ vét và
cưỡi cổ dân tộc. Nhân viên công lực có nhiệm
vụ bảo vệ dân th́ chỉ biết “c̣n đảng,
c̣n ḿnh”. Dân th́ lo kiếm sống cho bản thân và gia đ́nh
đă hụt hơi. Khi khá giả hơn th́ t́m cách ăn
chơi hưởng thụ. Hỏi c̣n lại bao nhiêu
người nghĩ đến đất nước,
đến dân tộc, đến tương lai của
những thế hệ sau? Đất nước bị bán
rẻ, bị khai thác cũng mặc. Đồng bào
sống ngay cạnh ḿnh bị đối xử tàn ác,
bất công, bị cướp đất, bị tống
tiền cũng dửng dưng. Ư niệm dân tộc đă
mất. Tinh thần dân tộc đă phai mờ.
Một quốc gia mà
tuổi trẻ không biết phản đối, đôi khi
nổi loạn để đ̣i hỏi những cải
cách xă hội là một quốc gia không có tương lai.
Tuổi trẻ vốn nhiều lư tưởng, luôn đ̣i
hỏi những ǵ tốt hơn, luôn mong ước một
xă hội hoàn hảo hơn. Có thể một số đ̣i
hỏi của họ không hợp lư và không tưởng,
nhưng hăy để cho họ lên tiếng nói. Đừng
dập tắt lư tưởng, ḷng hăng hái và những
mộng mơ của tuổi trẻ. Với thời gian,
họ sẽ trở nên khôn ngoan chín chắn hơn. Nếu
bắt họ vào khuôn phép, chỉ thờ một thần tượng,
chỉ tùng phục một tập đoàn toàn trị, có
thể họ sẽ trở nên ngoan ngoăn, nhưng sẽ
mất hết ư chí phấn đấu, kể cả
phấn đấu cho điều thiện, cho đất
nước, cho dân tộc. Phải chăng đảng
cộng sản VN muốn một tuổi trẻ như
thế? Tuổi trẻ vốn ít sợ hăi, ít tính toán mà
đă bị làm tê liệt như vậy, thử hỏi
những lớp người lớn hơn sẽ c̣n dè
dặt và thụ động tới đâu? Một cuộc
thay đổi toàn diện là điều đa số
người Việt Nam mong muốn. Mong muốn nhưng
để người khác làm. Ḿnh chỉ muốn
đứng coi và hưởng thành qủa. May thay vẫn c̣n
nhiều người, kể cả những người
trẻ, đă được miễn nhiễm loại vi
trùng “liệt kháng” này. Đó là hy vọng của dân tộc
và cũng là mối lo của những người đang
cầm quyền.
3/ Mất ư niệm đạo lư và truyền thống
Sống giữa một
xă hội băng ră như vậy, được đào
tạo trong một nền giáo dục lạc hậu,
dối trá, vụ thành tích với những tấm gương
không đẹp của thầy cô; được
hướng dẫn tinh thần bởi những chức
sắc tôn giáo sẵn sàng thỏa hiệp với kẻ ác
có quyền để đổi lấy mũ áo xênh xang,
cơ sở “hoành tráng”, cờ xí rước xách linh
đ́nh, dù sứ mạng được trao là bênh vực
người nghèo, kiếm t́m công lư cho người bị áp
bức; được cai trị bởi những quan tham
từ thượng tầng tới hạ tầng chỉ
lo kiếm tiền và hành dân, coi đất nước và dân
tộc không quan trọng bằng ghế ngồi và hầu
bao của ḿnh, như thế người dân làm sao tránh
khỏi phải phản ứng theo t́nh thế, điều
chỉnh lối sống theo hoàn cảnh để sống
c̣n. Luân lư, đạo nghiă trở nên vô dụng, không c̣n giúp
được ǵ cho đời sống cá nhân và xă hội.
Từ đó người ta nhiễm thói quen mới:
sống theo bản năng, theo tâm lư thực dụng,
tất cả để t́m kiếm quyền và lợi.
Tương quan giữa người với người
chỉ c̣n là tương quan quyền lợi, t́m cách lợi
dụng và bóc lột lẫn nhau. Trên báo chí Việt Nam, chúng
ta thấy đầy dẫy những bản tin cha mẹ,
con cái, vợ chồng, bạn bè giết nhau, đốt
nhau v́ tiền và t́nh, thậm chí thầy hiệu
trưởng Sầm Đức Xương c̣n hiếp dâm
nữ sinh và lôi học tṛ vào đường bán dâm.
Trộm cướp, lừa gạt là chuyện cơm
bữa. Nhà cầm quyền không có biện pháp giáo dục,
ngăn ngừa, ngoài việc bắt nhốt và xử
bắn. Thật ra, những người cầm quyền
không thể làm hơn v́ chính họ cũng là một
phường trộm cướp, chỉ khác “cướp
đêm là giặc, cướp ngày là quan”.
Những truyền
thống hiếu thảo với cha mẹ, anh em, “tôn sư
trọng đạo”, “bằng hữu thâm giao”, bán anh em xa
mua láng giềng gần, “thấy người hoạn nạn
th́ thương”, “bầu ơi thương lấy bí cùng”…
mà dân tộc Việt Nam đă trân trọng ǵn giữ từ
ngàn xưa nay trở thành tṛ cười cho những con
người của thời đại cộng sản.
Điều nguy hiểm là người ta không c̣n phân
biệt xấu tốt, thiện ác, phải trái. Nhất
điểm lương tâm đă lu mờ. Quan niệm
tội trở thành chủ quan, v́ ḿnh tự cho phép ḿnh phạm
tội và chính ḿnh làm quan ṭa xét xử ḿnh với những lư
lẽ tự bào chữa. Lối suy nghĩ và hành
động này đă được những người
cộng sản phát huy tối đa và lây lan ra cả xă
hội. Ông Hồ Chí Minh đă “chôm” lời của Quản
Trọng để dậy đời: “Kế hoạch
một năm không ǵ bằng trồng lúa. Kế hoạch
mười năm không ǵ bằng trồng cây. Kế
hoạch trăm năm không ǵ bằng trồng
người” (Nhất niên chi kế mạc như thụ
cốc. Thập nhiên chi kế mạc như thụ
mộc. Bách niên chi kế mạc như thụ nhân)
để nói lên cái hại của sự tàn phá và cái khó
của việc xây dựng con người. Ông “quên” nói tên
tác giả và cũng quên rằng chính ông và bọn đàn em
theo ông đă tàn phá con người Việt Nam từ
nhiều thế hệ qua. Bao giờ mới tới lúc
trồng người lại được đây? Và
đến bao giờ mới có thể gặt hái thành
qủa?
III –
NHỮNG ĐIỂM HẸN KHÔNG THỂ VẮNG MẶT
TRONG TƯƠNG LAI
Những người có
trách nhiệm quản trị đất nước, ngoài
việc giải quyết những vấn đề
hiện tại, c̣n phải biết sửa soạn cho đất
nước có khả năng đối phó với những
vấn đề tương lai, ít ra là tương lai
gần. Một số vấn đề quan trọng
của địa cầu và của con người sống
trên đó đang được quan tâm và bàn căi một cách
khẩn trương. Việt Nam không thể đứng
ngoài mối quan tâm này.
Trong cuốn The
World in 2050 (Thế Giới Vào Năm 2050)
được nhà xuất bản Dutton phát hành tại Hoa
Kỳ năm 2010, tác giả Laurence C. Smith đă nêu lên
một số vấn đề lớn mà nhân loại
phải lo giải quyết ngay từ bây giờ. Đó là
- Gia tăng dân số kèm theo đ̣i hỏi gia tăng
thực phẩm và nguyên liệu,
- Đô thị hóa và những vấn đề đặt
ra,
- Toàn cầu hóa với những ưu điểm và
khuyết điểm,
- Thay đổi khí hậu với những hậu qủa
của nó.
1/ Việc gia tăng dân số địa cầu
đă diễn ra với một tốc độ càng lúc càng
nhanh. Cách đây khoảng 12,000 năm, chỉ có 1 triệu
người sống trên trái đất. Măi đến
năm 1800, dân số địa cầu mới tăng lên 1
tỷ, rồi tỷ thừ hai đạt được
chỉ sau đó 230 năm, tức năm 1930. Tỷ thứ
ba chỉ cần 30 năm, 1960. Hiện nay trái đất có
6 tỷ người. Dự trù năm 2050 sẽ có 9.2
tỷ. Việt Nam năm 1975 chỉ có khoảng trên
dưới 40 triệu dân cả Bắc lẫn Nam.
Đến nay, sau 36 năm, dân số đă lên tới 86
triệu, tức qúa gấp đôi.
Thêm người th́ phải thêm thực phẩm,
nước uống và các thứ nhiên liệu. Dù kỹ
thuật canh tác và khai thác tài nguyên thiên nhiên có tiến bộ
tới đâu, chúng ta vẫn phải tự hỏi trái
đất có khả năng thỏa măn những nhu cầu
ngày càng gia tăng của con người măi măi
được không? V́ vậy việc bảo đảm
một môi trường sạch, nhất là nguồn nước
sạch là vấn đề thiết yếu hàng
đầu. Việt Nam đang làm ǵ với tài nguyên thiên
nhiên và môi trường của ḿnh? Nước thải khai
quặng bauxite và từ các xưởng kỹ nghệ,
đốn cây phá rừng, xử dụng bừa băi hóa
chất mua rẻ từ Trung Hoa có góp phần giải
quyết vấn đề này không?
2/ Hiện tượng đô thị hóa làm cho số
người sống ở thành thị ngày càng gia tăng.
Năm 2007 có 3.3 tỷ người sống ở các đô
thị trên toàn thế giới. Con số này sẽ gia
tăng tới 6.4 tỷ vào năm 2050. Dân bỏ nông thôn kéo
nhau đi sinh sống làm ăn ở đô thị v́ mức
sống ở nông thôn qúa thấp, đời sống
buồn tẻ, thiếu tiện nghi, chưa kể
nhiều nhà máy, nhiều công tŕnh mọc lên trên đất
nông thôn, khiến đất canh tác ngày càng thu nhỏ.
Những người quyết định kế hoạch
mở rộng thành phố Hà Nội lên tận chân núi Ba V́
và sang tận tỉnh Ḥa B́nh có hiểu việc cắt
đất canh tác, giảm khả năng cung cấp
thực phẩm và đẩy nhanh việc đô thị hóa
sẽ gây những hậu qủa ǵ cho toàn khu vực quanh Hà
Nội trong mười hoặc hai mươi năm
nữa? Đô thị mở rộng và tăng dân cư trú
đặt ra nhiều vấn đề cho những nhà cai
trị và quản trị: công ăn việc làm, cung cấp
thực phẩm, nước uống, giáo dục, vệ
sinh và y tế, giao thông… Cứ nh́n các thành phố Hà Nội
và Sài G̣n, với dân số tăng gấp 3 gấp 4 trong 36
năm qua, với nạn ùn tắc xe cộ, với t́nh
trạng đường phố biến thành sông khi có
mưa lớn, với nạn cúp điện giữa ngày hè
nóng nực…, chúng ta đă đoán biết đời
sống của thị dân hai thành phố này trong những
thập niên sắp tới sẽ khốn khổ ra sao,
nếu không có những cải thiện căn bản.
3/ Toàn cầu hóa là một nhu cầu của thời
hiện tại. Nó cổ vơ giao lưu hàng hóa và sự
hiểu biết. Nó kéo các dân tộc lại gần nhau và làm
cho tŕnh độ dân trí không qúa cách biệt giữa các
sắc dân trên địa cầu. Nhưng khi nói đến
toàn cầu hóa là nói đến tự do doanh thương.
Thomas Friedman trong cuốn The World is flat, xuất bản
năm 2006 tại Hoa Kỳ, nhận định tự do
doanh thương đ̣i hỏi tối đa tính hiệu
qủa (efficiency) và lợi nhuận (profitability). Những ǵ
rẻ nhất, kể cả sức lao động,
được săn lùng đến khắp mọi ngơ
ngách của trái đất. Điều này khiến cho
hố cách biệt giầu nghèo ngày càng mở rộng.
Những nước có kỹ thuật cao mua rẻ nguyên
liệu và thuê rẻ lao động của các nước
nghèo. Họ không chuyển giao kỹ thuật. Dân nghèo có
việc làm tạm bằng ḷng với đồng
lương vừa đủ sống qua ngày, c̣n hơn thất
nghiệp và đói rách. Trong khi giới đầu tư thu
hoạch “một vốn bốn lời”.
Phát triển kinh tế
ở Việt Nam đang đi theo con đường này.
Lẽ ra việc dùng nhân công rẻ để thu hút
đầu tư chỉ là giai đoạn đầu. Ngay
sau đó phải học hỏi và đ̣i hỏi chuyển
giao kỹ thuật. Với lối đào tạo nặng lư
thuyết và lạc hậu tại các đại học
như hiện nay, với việc cấp bằng tiến
sĩ như bán rau muống, với việc gửi hàng
vạn sinh viên đi du học mà ít có người chịu
về, nhất là với t́nh trạng móc ngéo để
hỗ tương thủ lợi giữa những
người có quyền và những nhà đầu tư, toàn
cầu hóa đối với Việt Nam là tiếp tục
cung cấp lao động rẻ, tiếp tục giúp
một thiểu số làm giầu và tiếp tục bán
rẻ tài nguyên của đất nước.
4/ Khí hậu thay đổi sẽ gây những hậu
qủa trầm trọng.Trái đất sẽ nóng lên v́
hiện tượng nhà kính (green house), nhưng quan trọng
hơn là khí thải CO2 (carbon dioxide) của các xưởng
kỹ nghệ, của khói xe đủ loại. Các nhà khoa
học ước tính khi nhiệt độ địa
cầu tăng từ 3 đến 6 độ bách phân, các
băng sơn ở hai cực sẽ tan, mực
nước biển sẽ dâng cao từ 40 tới 60 mét,
nhiều vùng đất ven biển sẽ bị ngập.
Trong số 20 thành phố hải cảng có nguy cơ bị
ngập lớn nhất, Sài G̣n đứng thứ 5, Hải
Pḥng thứ 16. T́nh trạng xả khói xe, khói nhà máy ở
Việt Nam rất trầm trọng. Việc phải làm ngay
là bắt buộc các công ty kỹ nghệ phải lọc
khói và lọc nước trước khi trả lại
thiên nhiên, bắt các nhà sản xuất xe hơi, xe gắn
máy phải t́m cách giảm thiểu khí thải CO2, buộc
xe cộ phải dùng xăng không pha ch́ (unleaded).
Những điều
trên không liên quan trực tiếp đến đề tài
t́nh h́nh Việt Nam, nhưng liên quan đến số
phận của đất nước và dân tộc trong một
tương lai không xa. Chúng là những điểm hẹn
với thế giới nhằm giải quyết những
vấn đề của địa cầu, trong đó có
Việt Nam. C̣n một điểm hẹn khác tối ư
quan trọng mà chúng ta không có quyền để lỡ,
đó là điểm hẹn với lịch sử
để chấm dứt trang sử đau thương
của dân tộc sau 60 năm dưới chế độ
cộng sản, và giải quyết mọi vấn
đề c̣n chồng chất do qúa khứ để
lại.
Đó là những
vấn đề của Việt Nam. Đó là t́nh h́nh
đất nước hiện nay. Chúng ta không bôi đen toàn
cảnh nhưng thực sự không thể lạc quan. Nghĩ
cho cùng dân Việt Nam chỉ là nạn nhân. Những thờ
ơ của họ đối với đất
nước, những giành giật mánh mung đối
với đồng bào, những khiếp nhược
đối với người cầm quyền, tất
cả là nhu cầu phải thích ứng với hoàn cảnh
để t́m sự sống trong cái chết. Chính những
người cộng sản muốn tạo ra một
khối dân như vậy để dễ dàng cai trị và
bóc lột. Đừng đặt những vấn
đề lư tưởng cao siêu, kể cả lư
tưởng cộng sản, với những người
cộng sản Việt Nam. Họ không c̣n tin ǵ hết.
Họ chỉ lọc lựa những ǵ c̣n có lợi cho
họ để làm nhăn hiệu dán trên lưng hầu tiếp
tục ra tuồng. Xă hội chủ nghiă, quyền lợi
giai cấp công nông, trung với đảng hiếu với
dân… chỉ là những chiêu bài cửa miệng cực
kỳ gian dối. Họ cố bám lấy quyền hành
nhưng không biết và không muốn làm chức năng
của người cầm quyền. Lư do dễ hiểu:
họ chỉ coi đất nước như một
chiến lợi phẩm để vơ vét, coi dân tộc
như một bầy nô lệ để khai thác và bóc
lột. V́ vậy, đối với những ai c̣n nghĩ
tới đất nước và dân tộc, việc cấp
thời phải làm ngay là đánh thức dân Việt về
quyền lợi của họ bị cướp
đoạt, nhắc nhở giới trí thức, sinh viên
đừng quên vai tṛ dẫn đầu quần chúng
của họ trong việc bảo vệ tổ quốc và
xây dựng một xă hội tốt đẹp. Phải có ư
thức mới dẫn tới hành động. Một tia
lạc quan như ánh sáng le lói cuối đường
hầm đă xuất hiện khi chúng ta thấy ư thức
của dân Việt đă chuyển động, thấy dân
đă hành động, dù chưa toàn bộ, thấy
nhiều trí thức đă nhập cuộc, thêm vào đó là
sự lúng túng, bất lực của những người
cầm quyền tại Việt Nam trong việc giải
quyết những vấn đề kinh tế. Họ
cũng không dấu nổi những lo sợ, hoảng hốt
qua việc gia tăng những đàn áp thô bạo nhắm
vào dân, khiến dân càng thêm căm phẫn. Dân Việt Nam c̣n
được khích lệ khi thấy cao trào đ̣i tự
do dân chủ của nhân dân các nước châu Phi và Trung
Đông đă đánh đổ nhiều chế độ
độc tài tàn ác và vững mạnh, thấy thế
giới đă đổi chiều, công khai yểm trợ
những dân tộc biết đấu tranh cho quyền
sống của ḿnh. Chúng ta có những lư do để hy
vọng một ngày tươi sáng của đất
nước sẽ đến gần, để toàn dân cùng
chung tay xây dựng tương lai, xóa đi những u ám
của qúa khứ.
Những cuộc
thảo luận như chúng ta đang làm hôm nay cũng là góp
phần làm cho niềm hy vọng đó sớm trở thành
hiện thực.
Mặc Giao
(1) Theo Wikipedia, lợi tức thường
niên tính theo đầu người (GDP per capita): Singapore: US$
49,754. Malaysia: 13,385. Thailand: 7,907
(2) Thêm một số công ty nhà nước lỗ nặng
trong năm 2010: Tổng Công Ty Cơ Khí Xây Dựng lỗ 39
tỷ đồng VN, Tổng Công Ty Công Tŕnh Giao Thông lỗ
149 tỷ , Tổng Công Ty Cà Phê lỗ tích lũy từ
trước đến nay 525 tỷ…
(3) Cũng trong năm 2010, Tổng Công Ty Lương
Thực Miền Nam nợ 56 tỷ đồng VN, Tổng
Công Ty Xây Dựng Hà Nội nợ 51,2 tỷ, Công ty
Thương Mại và Xuất Khẩu Viettel nợ 79
tỷ…
(4) Một số trường hợp điển h́nh:
Tỉnh Quảng Ninh có 19 dự án cho thuê biển để
trồng cấy thủy sản: công ty Việt Mỹ
được thuê 506 ha (1 ha = 1 mẫu tây = 10,000 mét vuông.
506 ha = 5,060,000 m2), công ty ToDi thuê 569 ha, công ty ngọc trai
Taiheyo Shinju 30 ha… Tại Nha Trang, công ty ngọc trai của
Đài Loan được thuê 442 ha, công ty ngọc trai
Nhật Bản 300 ha, công ty Marifarm của Na Uy 136 ha… Các băi
tắm đẹp nhất ven biển ở Đà Nẵng,
Quảng Nam, Nha Trang, Ninh Thuận, Phú Quốc cũng đă
và đang được giao cho các nhà đầu tư, đa
số ngoại quốc, thuê dài hạn để họ
tự do khoanh vùng, biến nhiều đoạn bờ
biển thành bất khả xâm phạm.
GS Nguyễn Tác An, Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia
Chương Tŕnh Hải Dương Học, phát biểu:
“Việc cho nước ngoài vào thuê mặt biển sẽ
càng gây căng thẳng, mất an ninh. Rơ ràng, khi thuê
được rồi, các ông chủ nước ngoài
sẽ ngăn lại, làm mất quyền giao thông, mất
quyền khai thác tại vùng biển quê hương của
người dân. Bên cạnh đó, việc thuê mặt
biển để kinh doanh quy mô lớn có thể gây
những tác động khôn lường về môi
trường… Nếu không suy xét cẩn trọng, chúng ta
sẽ phải trả giá đắt trong hiện tại và
tương lai”.
Ông Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng Cục Trưởng
Cục Biển và Hải Đảo thuộc Bộ Tài
Nguyên Môi Trường (Bộ liên quan trực tiếp
tới biển và rừng), tuyên bố: “Biển c̣n là câu
chuyện dài, câu chuyện không của riêng ai, một công
việc đại sự của cả dân tộc.
Đừng để một kẻ chặt mấy cây
gỗ rừng có thể bị xử tù, c̣n đang tâm phá
tan ḷng biển lại không ai thấy!” (theo vietnamnet.vn
ngày 17-08-2010)