Giáo Hoàng có mấy Sư đoàn?

Lê Phàm Nhân.

( Trích đăng nguyệt san Con Ong Việt số 60 )

 

     Bắt đầu từ năm 1944, gió đă đổi chiều trong trận đệ nhị thế chiến, trên cả hai mặt trận Âu châu và Thái B́nh Dương. Liên quân Mỹ, Nga và Anh bắt đầu chiếm lại được thế thượng phong. Tuy nhiên lúc bấy giờ, Đức quốc vẫn đi trước các nước kỹ nghệ tây phương khác một bước dài trên b́nh diện phát minh khoa học và kỹ thuật. Từ mùa thu năm 1944, Đức đă cho thí nghiệm thành công các loại bom bay V-1 và V-2, cũng như các chiến-đấu phản-lực-cơ đầu tiên trên thế giới. Đă lỡ ngồi trên lưng cọp, Hitler quyết định tung ngay các chiến cụ mới này vào trận địa, với hy vọng xoay chuyển thế cờ. V-1 và V-2 đă được phóng sang Luân Đôn, chiến-đấu phản-lực-cơ cũng đă bay lên vùng trời Bá Linh nghênh chiến các đợt không tập của quân đồng minh. Nhưng đă quá trễ. V́ Hoa Kỳ, ngoài việc  phản công trên các đảo khắp vùng Thái B́nh Dương, vẫn c̣n khả năng gởi nhiều không-đoàn phóng pháo cơ B-17, cũng như khu-trục chiến-đấu-cơ mới P-51 Mustang sang Anh cát Lợi để phụ giúp không quân hoàng gia Anh, ngày đêm nghiền nát các khu vực kỹ nghệ chế-xuất của Đức quốc xă, làm Đức ngă quỵ.

     Sang mùa xuân năm 1945, quân Anh Pháp và Mỹ siết chặt ṿng vây vào Bá Linh từ các hướng tây, tây bắc và tây nam. Hồng quân Nga từ phía đông tiến nhanh vào cửa ngơ Bá Linh, với khoảng mười lăm ngh́n chiến xa T-34. Hồng quân được Joseph Stalin cho lệnh “làm cỏ” quân dân Đức trên đường tiến quân, để trả thù việc Hitler gởi cả lộ-quân tấn công Leningrad năm trước! Bá Linh thất thủ, hồng quân không thu hồi các sư đoàn thiết giáp về Nga, mà lại được lệnh của Stalin cho rải lại chiếm đóng các nước đông âu, thẳng tay dập tắt mọi sức kháng cự. Thoát vỏ dưa, lại gặp vỏ dừa. Toàn vùng đông âu vừa thoát khỏi gót giày phát xít, th́ lại đă rơi ngay vào dưới ách kềm kẹp sắt máu của cộng sản. Joseph Stalin tung đoàn quân viễn chinh vừa chiến thắng trở về, chiếm luôn 14 tiểu quốc phía tây Russia, để thành h́nh Liên-Bang Sô-Viết những năm sau đó. Không những quán quân về việc tàn sát người Đức và toàn vùng đông âu, Stalin c̣n vô địch trong màn thanh trừng chính cả triệu dân Nga, để biến nước này thành thủ-phủ của thiên đàng vô sản xă hội chủ nghĩa. Giáo Hội Orthodox lâu đời ở Nga cũng đành hoàn toàn khuất phục dưới bàn tay sắt! Ngất ngưỡng trên sức mạnh quân sự tưởng như vĩnh viễn vô địch, Joseph Stalin đă nh́n về Ṭa Thánh Vatican với một câu nói xách mé, pha lẫn thách đố và đe dọa: “Giáo Hoàng có mấy sư đoàn?”.

  

     Trước đó, trong những năm tháng căng thẳng ngột ngạt của trận đệ-nhất thế-chiến, lúc chính nước Nga đang đứng trước hiểm họa cộng sản, vào ngày 13 tháng 10 năm 1917, Đức Mẹ Maria đă hiển thánh ở thị trấn nhỏ Fatima, nước Bồ Đào Nha, và đă nói lời tiên tri với 3 đứa trẻ, rằng “Trái Tim Mẹ sẽ thắng, và nước Nga sẽ trở lại”. Dầu vậy, câu nói của bạo chúa Stalin trên đây, đă không được trả lời suốt thời gian Stalin, Breznev, Kruschev, Chechnenko . . . thay nhau làm chủ-nhân-ông điện Kremlin. Câu nói xách mé trên cũng chưa hề được trả lời suốt nhiệm kỳ của các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm. Khói lửa điêu linh tiếp tục trùm phủ lên thế kỷ 20 . . .

 

     Trong bối cảnh đó, Đức Giáo Hoàng John Paul Đệ Nhị đă chào đời ngày 18 tháng 5 năm 1920 tại thị trấn Wadowice nước Ba Lan, dưới tên thật là Karol Josef Wojtyla Jr. Thân phụ Wojtyla Sr. là một sĩ quan trong lục-quân Ba Lan. Chàng thanh niên Karol Jr. rất tích cực hoạt động trên nhiều lănh vực xă hội, thể thao, sân khấu kịch nghệ, kể cả sáng tác và xuất bản thơ. Năm ngài vào học đại-chủng-viện, th́ xứ sở Ba Lan bị Đức Quốc Xă chiếm đóng, chủng viện bị đóng cửa, việc học hành phải lén lút khó khăn. Cuối cùng rồi chủng-sinh Karol Wojtyla Jr. cũng đă được bí mật thụ phong linh mục ngày 1 tháng 11 năm 1946, v́ Ba Lan lại đă rơi vào dưới bàn tay của cộng sản vô thần. Linh mục Wojtyla Jr. đă được gởi sang học ở Ư, và đă đổ tiến sĩ thần học tại La Mă năm 1948. Trở về lại Ba Lan, cha Karol Wojtyla Jr. được giao trách nhiệm đầu tiên, trông coi giáo xứ Niegowic, cách thủ đô Ba Lan khoảng 50 cây số. Và ngài tiếp tục phục vụ giáo hội tuần tự qua các chức vụ khác nhau, cho đến ngày được Hội Đồng Hồng-Y bầu ngài vào chức vụ hàng đầu giáo hội Công Giáo vào ngày 16 tháng 10 năm 1978, với số 103 phiếu thuận trên 109 phiếu bầu, sau 10 ṿng đầu phiếu. Năm đó là lần đầu tiên, sau hơn 450 năm, một vị Hồng Y không sinh trưởng ở Ư được chọn làm Giáo Hoàng.

 

     Cả hai tháng nay, truyền thông và báo chí đă nói nhiều về cuộc đời siêu phàm của ngài. Trong khuôn khổ nhỏ bé của bài báo này, chỉ xin ghi lại vài nét chính, cùng với những con số cụ thể . . .

Đối ngoại, ngài đă mở rộng ṿng tay ḥa hợp sang các tín ngưỡng khác, như các lănh tụ Muslim và Đức Đạt Lại Lạt Ma. Ngài cũng đă có nghĩa cử ḥa giải, bằng cách nhân danh giáo hội, chính thức lên tiếng xin lỗi về những sai lầm của giáo hội trong quá khứ. Ngài giữ vững lập trường chống phá thai, và rất khắt khe với các khuynh hướng “cấp tiến” đang len lỏi vào hệ thống truyền giáo của giáo hội. Đối với các lănh tụ chuyên chế hoặc độc tài như Mikhail Gorbachev và Fidel Castro, ngài vẫn tiếp xúc, vẫn thăm viếng, nhưng đồng thời vẫn lên tiếng chỉ trích chế độ cộng sản, và thách thức việc tôn trọng quyền nhân bản. Ngài cực lực chỉ trích chủ nghĩa cộng sản tàn bạo vô thần, nhưng ngài cũng mạnh dạn cảnh tỉnh sự suy đồi của xă hội tây phương qua các khuynh hướng vật-chất phi-nhân và nhục-thể sa-đọa (ví dụ điển h́nh mà người ta đă thấy qua cuộc bầu cử ồn ào ở Hoa Kỳ, là đám Bill Clinton/Monica Lewinski, Ted Kennedy, John Kerry, và lũ Hồ Ly Vọng). Đối nội, ngài cứng rắn chống lại việc bổ nhậm nữ tu sĩ, viện cớ rằng chính Chúa Giê-Su cũng chỉ chọn nam tông-đồ. Ngài cũng nghiêm khắc với khuynh hướng thiên về vấn đề cho phép tu sĩ lập gia đ́nh.
 

    Đức Giáo Hoàng John Paul II đă đứng đầu Giáo Hội Công Giáo đúng 26 năm, 5 tháng, 16 ngày. Hành tŕnh giáo-sự của ngài đă trải dài 775,231 dặm anh. Ngài đă di chuyển 146 chuyến hành giáo trên lănh thổ Ư Đại Lợi, và 104 chuyến đến thăm viếng 129 quốc gia khác nhau trên khắp hoàn vũ (bốn chuyến đến Phi Châu và năm chuyến đến Châu Mỹ La Tinh). V́ những chuyến đi này, Đức Giáo Hoàng đă ra ngoài ṭa thánh Vatican tổng cộng 822 ngày (khoảng 2 năm rưỡi). Ngài đă đọc khoảng 20,000 bài nói chuyện, dài khoảng 100,000 trang. Ngài đă tấn phong 1,338 Vị Thánh (hồ sơ c̣n chưa giải quyết từ nhiều đời tiền nhiệm), bổ nhậm 231 vị Hồng Y. Ngài đă thăm viếng hoặc tiếp xúc với các nguyên thủ quốc gia 1,590 lần. Tại điện Vatican, ngài cũng đă chủ tọa 1,160 buổi thuyết giảng, với tổng cộng hơn 17 triệu người trong cử tọa . . . Mặc dù vậy, có 4 quốc gia đă từ chối việc thăm viếng của Đức Giáo Hoàng John Paul II, mà tên gọi chẳng làm ai ngạc nhiên. Đó là các nước Nga (hậu cộng sản), Trung cộng, Bắc Hàn, và dĩ nhiên là . . . không thể thiếu việt cộng, việt cộng hiện đại, việt cộng đỉnh cao trí tuệ, việt cộng đă chế ra được tu sĩ quốc doanh để xài!

   

     Cho đến cuối thập niên 1980, đối với nước Ba Lan và và các quốc gia đông âu, Đức Giáo Hoàng John Paul II đă can đảm và khôn khéo thủ một vai tṛ rất nguy hiểm và tế nhị. Đó là làm sao giúp đỡ giáo hội và giáo dân các quốc gia đó giữ vững được niềm tin nơi Thiên Chúa, niềm tin đoàn kết phấn đấu, mà không tạo lư do cụ thể cho bạo quyền cộng sản thẳng tay đàn áp đẫm máu, gây thêm cảnh nồi da xáo thịt.    

Chỉ một năm sau khi nhậm chức, Giáo Hoàng John Paul II đă dàn xếp trở về thăm quê hương lần thứ nhất vào tháng 6 năm 1979, lúc bấy giờ đang rất ngột ngạt dưới quyền của tướng Jaruzelsky, thủ tướng Ba Lan. Dân chúng Ba Lan (85% công giáo) đă tập họp thật đông đảo để nghênh đón ngài, và nô nức mong ngài nói lên lời ủng hộ công đoàn Đoàn Kết (Solidarity) do Lech Walesa cầm đầu. Nhưng Đức Thánh Cha đă khôn khéo cao siêu hơn, kêu gọi mọi người hăy giữ vững niềm tin, và đặc biệt khuyên nhủ các thủ lănh Lech Walesa của Ba Lan cũng như Vaclav Havel của Tiệp Khắc, hăy “cố gắng sống như là họ đang ở trong thể chế tự do”! Trong chuyến trở về lần thứ nhất này, ngài cũng đă đến điện Belweder để hội kiến với thủ tướng Jaruzelsky và giáo sư Jablonski, chủ tịch nước Ba Lan. Ngài chỉ cố gắng thuyết phục, kêu goi tôn trọng con người, khuyến khích nên thẳng thắn đàm thoại để nghe ư dân, chứ ngài tuyệt nhiên không đưa ra một “tối hậu thư” nào.

 

     Khi ngài trở về La Mă, trùm mật vụ KGB của Liên Sô là Yuri Andropov đă lưu ư các lănh tụ cộng sản Ba Lan, rằng họ đă làm “một lỗi lầm rất lớn” khi đă thuận cho John Paul II về thăm quê nhà! Và cộng sản đă hành động. Họ xử dụng một người Thổ Nhỉ Kỳ cuồng tín tên Mehmet Ali Agca, trang bị cho hắn một khẩu súng lục đặc biệt, cho trà trộn vào đám đông công chúng trong công trường thánh Phê-rô, và bắn trúng bụng Đức Giáo Hoàng ngày 13 tháng 5 năm 1981. Cuộc giải phẫu cam go kéo dài hơn 5 giờ, và ngài đă thoát hiểm. Khoảng hai năm sau, ngài đă đích thân đến tận khám đường để thăm viếng và tha thứ cho hung thủ Mehmet Agca.

 

     Sau biến cố này, Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đă có một cuộc mật đàm rất quan trọng với Đức Giáo Hoàng John Paul II vào ngày 7 tháng 6 năm 1982, mà kết quả chỉ được “x́” ra nhiều năm sau ngày Liên Bang Sô Viết tan ră năm 1991, theo đó, hai nhà lănh đạo đă đồng ư đề cử nhân sự dưới quyền phối hợp chặt chẽ và bí mật, để thảo ra và thi hành kế sách nhằm cứu văn công đoàn Đoàn Kết của Lech Walesa đang có nguy cơ tan ră trước những tấn công của nhà cầm quyền cộng sản. Tướng Jaruzelsky, cũng là người công giáo, nhưng đă ban hành lệnh thiết-quân-luật ngày 13 tháng 12 năm 1981, sau chuyến hồi hương thứ nhất của Đức Thánh Cha.  Nếu “Solidarity” tan ră, th́ ngọn lửa hy vọng của toàn thể vùng đông âu cũng sẽ bị dập tắt luôn.

Việc phối hợp tối mật này được gọi là “Liên Minh Thánh Bí Mật” (Secret Holy Alliance). Các nhân sự gốc Ba Lan đă được Ṭa Thánh điều động gồm có vị Tổng Giám Mục Pio Laghi ở vùng Hoa Thịnh Đốn, đức Hồng Y John Krol ở Philadelphia, vị Giám Mục Bronislav Dabrowski, phụ tá cho đức Hồng Y Glemp ở vùng thủ đô Ba Lan. Phía chánh quyền Reagan th́ có các viên chức cao cấp như giám đốc CIA William Casey, cố vấn an ninh quốc gia William Clark, tướng Alexander Haig, đại sứ William Wilson cạnh ṭa thánh, đặc sứ lưu động Vermon Walters . . . Ngay tại thủ đô Ba Lan, có tin rằng CIA cũng đă móc nối tổ chức được với một thứ trưởng quốc pḥng, và với đại tá Ryszard Kuklinski trong bộ Tổng Tham Mưu bộ-đội cộng sản Ba Lan lúc bấy giờ. Công đoàn “Solidarity” được bí mật giúp đỡ bằng những phương tiện phi-quân-sự, như tiền bạc, thuốc men cùng các phương tiện thông tin và dụng cụ ấn loát v. v. . . không mang nhăn hiệu USA.

        

     Cuộc đời của Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan và của Đức Giáo Hoàng John Paul II có nhiều trùng hợp lư thú bất ngờ. Thời trai trẻ, cả hai đều có duyên dính dáng một thời đến nghiệp diễn xuất, sân khấu kịch trường. Rồi gió đưa gió đẩy, cả hai bỗng trở thành hai nhà lănh-tụ hàng đầu của thế giới tự do. Rồi cả hai cùng bị hung thủ cuồng tín mưu sát, cùng trúng đạn nguy kịch, cùng thoát hiểm. Cuối cùng, tuy mỗi người ở một phương vị khác nhau, nhưng v́ chức vụ đang gánh vác, đă gặp nhau và sát cánh cộng tác, v́ cùng có trách nhiệm phải trực diện đối đầu với cộng sản phi-nhân vô-thần . . . Trước sau, hai Vị đă hội ngộ tâát cả 7 lần cho nhiệm vụ chung: khai tử chủ nghĩa cộng sản quốc tế đang cố biến nhân loại thành nô lệ cho một chủ thuyết phiêu lưu không tưởng . . .

 

     Đức Giáo Hoàng đă bất chấp nguy hiểm đến tánh mạng, lại cho dàn xếp để trở về thăm Ba Lan hai chuyến nữa, để kín đáo tiếp lửa cho công đoàn “Solidarity” . . . Về đến Ba Lan lần thứ nh́ vào ngày 16 tháng 6 năm 1983, ngài đă quỳ xuống hôn đất quê hương, trước cả 2 triệu tín đồ tụ tập nghênh đón ngài trở lại sau khi bị mưu sát, bất chấp lệnh thiết-quân-lực. Tướng Jaruzelski, lănh tụ cộng đảng Ba lan cũng có mặt trong thành phần nghênh đón. Lần này, Đức Thánh Cha cũng chưa trực tiếp công khai đề cập đến công đoàn “Solidarity”. Tuy vậy, lời hiểu dụ của ngài cũng chẳng êm tai chút nào cho tướng Jaruzelski. Ngoài việc thăm hỏi đồng bào, thuyết giảng phúc âm, kêu gọi giữ vững niềm tin, Ngài đă mượn ư thánh kinh mà nhắn nhủ: “Các con đừng sợ hăi. Cha sẽ ở cùng các con, từ bây giờ và măi măi, cho đến ngày tận thế”.

 

     Tháng 2 năm 1987, cộng đảng Ba Lan có ư mở cửa để đối thoại với Giáo hội. Tổng Thống Hoa Kỳ Reagan liền đẩy mạnh thêm, bằng cách quyết định băi bỏ lệnh cấm vận kinh tế Ba Lan, để kéo tướng Jaruzelski ra xa hấp lực của một điện Cẩm Linh đang trên đà suy yếu, đồng thời cũng để lót đường cho Đức Giáo Hoàng về thăm Ba Lan một chuyến quyết định dứt điểm nữa. Tháng 6 năm đó, chỉ đúng 4 tháng sau khi Hoa Kỳ băi bỏ cấm vận, Đức Thánh Cha lại trở về thăm Ba Lan lần thứ ba. Lần này, khác với hai lần trước, ngài đă thăm viếng nhiều nơi khắp nước Ba Lan. Lần này, ngoài việc rao giảng về nhân quyền, ngài đă làm điều mà đồng bào của ngài từ lâu mong đợi: ngài đă ca tụng sự kiên tŕ đấu tranh bất bạo động của công đoàn “Solidarity”, phương thức không đổ máu duy nhất sẽ đưa đến giải thoát người dân Ba Lan. . .

 

     Về phần Tổng Thống Hoa Kỳ th́, ngoài việc ngấm ngầm yểm trợ cho Ṭa Thánh tạo áp lực nơi “cái ngọn” Ba Lan, ông Ronald Reagan c̣n kéo “cái gốc” Liên Bang Sô Viết vào một cuộc chạy đua vũ khí, vốn là ngón sở trường của điện Cẩm Linh trong suốt cuộc chiến tranh lạnh. Nhưng cuộc chạy đua lần này, không phải là chạy đua vũ khí cổ điển, mà là chạy đua vũ khí “star war”, với bấm nút, với “stealth technology” mà mắt radar, với “laser”, với “satellite” từ thượng tầng không gian, với phi-đạn diệt hỏa tiễn liên-lục-địa . . . Thua kém xa về kinh tế và tài chính, không c̣n đủ mạnh để hù, để “làm nư” như từ thời Nikita Kruschev về trước, cuối cùng Mikhail Gorbachev đuối hơi, đành bỏ cuộc, vội vă đưa ra những sáng kiến “Glasnot” (cởi mở) và “Perestroika” (tái xây dựng) . . . để chỉ mong cứu văn chính nước Nga, nhưng cũng đă muộn. Tháng 11 năm 1987, đúng 5 tháng sau khi Đức Giáo Hoàng về thăm Ba Lan lần thứ ba, chủ tịch Gorbachev cũng đến thăm Ba Lan. Ông Gorbachev đă nói thật với tướng Jaruzelski rằng, cho đến nước này, th́ cộng đảng Ba Lan không thể cai trị mà không có sự hợp tác của công đoàn “Solidarity”! Trước khi rời ṭa Bạch Ốc ở cuối nhiệm kỳ 2, mùa thu năm 1988 Tổng Thống Reagan đă viếng thăm Âu châu và Tây Đức. Ông đă dừng lại đọc một bài diễn văn tại “bức tường ô nhục” ngăn cách đông tây Bá Linh. Và ông đă gọi đích danh chủ tịch nhà nước Liên Sô: “Mr. Gorbachev, hăy kéo sập bức tường ô-nhục này”.

      

     Ngày 5 tháng 4 năm 1989, cộng đảng Ba Lan và công đoàn “Solidarity” đă kư kết thỏa hiệp, đồng ư tổ chức bầu cử vào tháng 6 năm 1989. Nhưng không kịp, nên măi đến cuối năm sau, tháng 12 năm 1990, cuộc bầu cử mới được tiến hành. Trước đó, nhà tù được mở ra. Sau 9 năm bị bắt bớ giam cầm, anh công nhân Lech Walesa đă đắc cử Tổng Thống Ba Lan. Nh́n gương lân bang của ḿnh, cộng đảng Hung (Hungary) cũng đă nhượng bộ, cho bầu cử quốc hội đầu tiên ngày 19 tháng 10 năm 1989, và nhanh chóng ban hành luật đa nguyên đa đảng, điều mà cộng sản Việt đến nay vẫn chưa dám làm, sau 30 năm cầm quyền! Các lănh tụ Đông Đức sau cùng là Honecker (cầm quyền 18 năm) và Egon Krenz (một tháng rưỡi sau chót) phải từ bỏ quyền hành, bước xuống giữa tháng 10 năm 1989. Bức tường ô nhục bị san bằng ngày 9 tháng 11 năm đó cho dân chúng hai miền đông tây thông thương qua lại, đưa đến việc thống nhất nước Đức ngày 3 tháng 10 năm 1990.

 

     Ngày 24 tháng 10 năm 1989, Tổng Bí Thư cộng đảng Tiệp Khắc là Milos Jakes từ chức. Kết quả cuộc bầu cử trong dân chủ sau đó, đă đưa kịch-tác-gia Vaclav Havel lên chức Tổng Thống, cầm đầu một chính phủ liên hiệp, với vài tổng bộ trưởng là cựu cán bộ cộng sản. Cuộc biển dâu thay thầy đổi chủ ở toàn vùng đông âu đă diễn ra tương đối êm thấm, không đổ máu, ngoại trừ trường hợp của Lỗ Ma Ni (Roumania). Lănh tụ cộng đảng Lỗ là Nicolai Ceausescu đă mù quáng, không chịu  thấy cơ trời, ngoan cố đưa quân đàn áp phong trào tự do dân chủ. Sau khi gây thương vong cho khoảng 80 ngh́n quân dân nước Lỗ, Ceausescu đă thất bại và chạy trốn. Nhưng đă bị dân chúng nhận diện và bắt được tại một làng quê hẻo lánh, đem ra xử tử ngay tại chỗ, oái oăm thay, lại đúng vào ngày 25 tháng 12 năm 1989!

   

     Giở những trang sử cận đại của vùng đông âu, một thời đau khổ dưới gót giày phát xít, rồi liền sau đó lại quằn quại dưới ách cộng sản, đă nhanh chóng vững tiến trên sinh hoạt dân chủ tự do, người ta không khỏi cảm thấy đau ḷng khi nghĩ tới cả trăm triệu người bất hạnh, cho đến nay vẫn c̣n đang bị cộng sản kềm kẹp tại Bắc Hàn, Cuba và Việt nam, chưa kể Trung cộng. Đến gần cuối thế kỷ thứ 20, sau khi gieo tang tóc cho hàng chục triệu sanh linh, chủ thuyết phi nhân vô thần đó đă rơi xuống hố sâu tự hủy diệt, chỉ trừ có một vài ốc đảo c̣n sót lại như Trung cộng, Bắc Hàn, Cuba và việt cộng. Chỉ có Trung cộng đang phát triển về kinh tế, nhưng chính tiến bộ này cũng đă gây ra rất nhiều khó khăn nan-giải cho tầu cộng trên nhiều lănh vực khác, ngày càng chồng chất, như thiếu hụt năng lượng trầm trọng, như tàn phá môi sinh dọc sông Cửu Long, như không ngăn chặn bưng bít được ngọn gió đ̣i tự do dân chủ đang nương theo đà tiến hóa trên toàn cầu  xâm nhập vào . . . C̣n Bắc Hàn, Cuba và việt cộng, th́ rơ ràng đang là những ngọn đèn dầu leo lét trước luồng gió tự do dân chủ trong cao trào tiến hóa tự nhiên của nhân loại. Dĩ nhiên lịch sử không phải là chuyện một ngày một bữa, nhưng cái ǵ thăng, tất phải có trầm, và chuyện thay đổi tự nhiên, chỉ là vấn đề thời gian . . .

 

     Cuối cùng rồi, gần cuối thế kỷ thứ 20, câu hỏi lỗ măng của Joseph Stalin đă được trả lời. Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đă không gởi một sư đoàn nào đến thủ phủ của thiên đàng vô sản hay vùng đông âu. Đức Giáo Hoàng John Paul II lại càng chẳng cần có một người lính nào, đừng nói chi đến sư đoàn, ngoài trừ toán gác danh dự gốc Thụy Sĩ với y phục màu mè sặc sỡ cổ truyền tại ṭa thánh. Mặc dù vậy, lịch sử đă minh chứng, Joseph Stalin và những kẻ kế vị đă không phải là vĩnh viễn vô địch . . .

 

Lê Phàm Nhân